Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
淨土大經解演義
phần 9
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương
Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Ḥa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Tập 17
Xin xem Vô Lượng
Thọ Kinh Giải, trang mười sáu, ḍng thứ tư
đếm từ dưới lên.
“Đại thánh thùy từ, đặc
lưu thử kinh” (Đức đại thánh rủ ḷng
Từ, đặc biệt lưu lại kinh này). “Kinh vân: Đương lai chi thế,
kinh đạo diệt tận, ngă dĩ từ bi ai mẫn,
đặc lưu thử kinh, chỉ trụ bách tuế, kỳ
hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ư sở nguyện,
giai khả đắc độ” (Kinh dạy: “Trong đời
tương lai, kinh đạo diệt hết, ta do ḷng từ
bi thương xót, đặc biệt lưu lại kinh này tồn
tại một trăm năm, có các chúng sanh gặp được
kinh này, tùy theo sở nguyện đều được
độ”). Chúng ta xem đoạn này. “Kinh vân”: Phẩm bốn mươi lăm, tức
phẩm Độc Lưu Thử Kinh (riêng lưu lại
kinh này) trong kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn
nói như vậy. “Đương
lai chi thế” là nói về tương lai, trong thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài thuyết pháp đă nói tới
tương lai, thời gian tương lai ấy rất xa.
Sáng nay, tôi đă nhận lời mời tham dự chuyên mục
phỏng vấn của đài truyền h́nh Phượng
Hoàng, đề tài cho lần phỏng vấn này là [thảo
luận về vấn đề] tai nạn. Có thể thấy
là hiện thời, trong ngoài nước vấn đề
này đều được phổ biến coi trọng. Trước
đây, chúng tôi ở ngoại quốc rất ít bàn tới vấn
đề này. Năm nay, tôi tham dự cuộc phỏng vấn
năm tôn giáo tại Úc, bàn tới vấn đề này, họ
hỏi chúng tôi: “Phật giáo có cách nh́n như thế nào đối
với vấn đề này? Dùng phương pháp ǵ để
đối phó?” Sáng nay, cuộc phỏng vấn của
đài [truyền h́nh] Phượng Hoàng cũng nhằm bàn
thảo chủ đề này. Người ngoại quốc
nói tới Tận Thế, người Trung Quốc không nói.
Quả thật mấy ngàn năm qua, Trung Quốc là đời
thái b́nh hưng thịnh, là đất nước b́nh trị
trên toàn cầu, được mọi người hết
sức tôn trọng, kính phục. Trong Phật pháp càng chẳng
có tận thế. Đức Phật nói: “Đương lai chi thế, kinh đạo diệt
tận” (Trong đời tương lai, kinh đạo
diệt hết), tức là trong pháp vận của Thích Ca Mâu
Ni Phật, đến cuối cùng kinh điển nhà Phật
cũng bị tiêu mất trên thế gian này. Lúc nào vậy?
Kinh dạy chúng ta, Chánh Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật là một
ngàn năm, Tượng Pháp một ngàn năm, Mạt Pháp là
một vạn năm; v́ thế, pháp vận là một vạn
hai ngàn năm. Nói theo cách bây giờ, sự giáo hóa của
đức Thế Tôn có sức ảnh hưởng trong một
thời gian dài như thế. Về không gian, nhục nhăn của
chúng ta có thể thấy toàn bộ địa cầu,
nhưng nhục nhăn chúng ta chẳng thấy được
[sức giáo hóa của đức Phật trọn khắp]
những chiều không gian khác biệt, [những chiều
không gian ấy] thường được gọi là “mười pháp giới”. V́ thế,
[pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật] tồn tại trong
thời gian dài như thế.
Trong
chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, Mạt Pháp đă trôi
qua một ngàn năm rồi; trong chín ngàn năm ấy, pháp
vận của Phật có lúc hưng, lúc suy. Trên thực tế,
hưng hay suy không phải do Phật, mà cũng chẳng phải
do Pháp, mà do con người có tin tưởng giáo huấn của
Phật Đà hay không? Có chịu thật sự tu tập
hay không? Nếu chúng ta tin sâu, chẳng nghi ngờ, sốt sắng
y giáo phụng hành, [pháp vận] sẽ là thời Chánh Pháp, quư
vị chắc chắn có thành tựu trong một đời
này. Trong Tịnh Tông, văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới là chứng quả, là thành tựu, lại
c̣n là thành tựu viên măn. Kinh này đă giảng rất rơ
ràng, rất minh bạch, đấy chính Chánh Pháp. Kinh giáo diệt
tận, nói thật ra, một bộ kinh này đại diện
trọn vẹn hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm, v́ sao? Hết thảy
các pháp đến cuối cùng đều quy vào Tịnh
Độ, vậy th́ Tịnh Độ há chẳng phải
là hết thảy các pháp ư? Đức Phật đặc
biệt từ bi, đến cuối cùng, lưu lại kinh
này một trăm năm. Trong một trăm năm cuối
cùng của thời Mạt Pháp, bản
nào [sẽ được lưu lại]? Chắc chắn
là bản đang dùng hiện tại này! Chắc chắn là kinh
và chú giải, tức là bản chú giải kinh này của cụ
Hoàng Niệm Tổ, sẽ được lưu lại
đến cuối cùng trong thời Mạt Pháp. Sau một trăm
năm ấy, kinh này cũng chẳng c̣n, chẳng tồn tại
trên thế gian này nữa, vẫn c̣n có sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, ai có
thể nghe danh hiệu này, cũng có thể tin, niệm,
phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới th́ vẫn có thể thành tựu. Đức Như
Lai quả thật từ bi vô tận, thương xót chúng
sanh trong thế giới Sa Bà. Sau khi đức Phật diệt
độ, sau khi Phật pháp diệt sạch trên thế
gian này, chúng ta biết đại nguyện của hết
thảy chư Phật, Bồ Tát đều là giúp chúng sanh phá
mê khai ngộ, ĺa khổ, được vui, chẳng bỏ
chúng sanh. Hiện thời, đức Phật chẳng tại
thế, nhằm lúc đức Phật chẳng tại thế,
Địa Tạng Vương Bồ Tát thay mặt đức
Phật trong thế gian này, thay Phật hóa độ chúng sanh;
đây là giai đoạn không có Phật xuất thế, giai
đoạn này thời gian rất dài. Di Lặc Hạ Sanh
Kinh nói phải chờ suốt năm mươi sáu ức bảy
ngàn vạn năm, vị Phật tiếp theo là Di Lặc Bồ
Tát mới đến thị hiện thành Phật trong thế
gian này giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, dùng tám tướng
thành đạo để thị hiện thành Phật, thế
gian này lại có Phật thuyết pháp. Do vậy, chúng ta phải
biết: Trong thế gian này, thời gian có Phật xuất
thế chẳng dài! Tuy là một vạn hai ngàn năm, chúng
ta thoạt nh́n [tưởng chừng] rất dài, nhưng trong
không gian và thời gian vô tận th́ một vạn hai ngàn năm
rất ngắn!
Sau khi liễu giải
chân tướng sự thật, mới biết được
gặp gỡ Phật pháp chẳng dễ dàng; do vậy,
đức Phật thường nói: “Thân người khó được, Phật pháp khó
nghe”. Nay chúng
ta được làm thân người, lại gặp gỡ
Phật pháp, lại được gặp pháp thượng
thượng thừa trong Phật pháp, gặp Hoa Nghiêm,
gặp Tịnh Độ, hy vọng các đồng học
hăy thật sự thức tỉnh, chúng ta quyết định
phải thành tựu trong một đời này. Thành tựu khó
hay dễ? Nói khó th́ chẳng khó, mà nói là dễ th́ cũng khá
khó. Khó hay dễ hoàn toàn phải hỏi chính ḿnh, chẳng thể
hỏi Phật, cũng chẳng thể hỏi Pháp, cũng
chẳng thể hỏi ai khác! Quư vị thật sự tin, thật
sự phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật
sự chịu thật thà niệm Phật th́ sẽ chẳng
khó, thật sự chẳng khó! Nếu quư vị hoài nghi, nếu
c̣n lưu luyến thế gian này, muốn văng sanh nhưng lại
chẳng nỡ rời khỏi thế gian này, sẽ khó lắm!
Do vậy, nhất định là nếu hiểu rơ ràng, minh
bạch Lư, Sự, nhân quả của Tịnh Độ th́
ḷng tin của chúng ta sẽ thanh tịnh, chẳng cô phụ
đức Thế Tôn thuở tại thế đă giảng
kinh, giáo học suốt bốn mươi chín năm, nhằm
mục đích ǵ? Nhằm mục đích giúp chúng ta đoạn
nghi, sanh tín. Chúng ta nghe hiểu rơ ràng, minh bạch duyên khởi
của toàn bộ vũ trụ và sanh mạng, chính ḿnh do
đâu mà có? Sa Bà là như thế nào? Cực Lạc là như
thế nào? Đều hiểu rơ ràng, chúng ta sẽ biết chọn
lựa ra sao, biết dụng công như thế nào. Chúng ta giữ
lấy thế giới Cực Lạc, đến thế giới
Cực Lạc chứng đắc Phật quả viên măn rốt
ráo. Đó là như trong phần sau đă nói: “Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ư
sở nguyện, giai khả đắc độ” (nếu
có chúng sanh gặp gỡ kinh này, tùy theo sở nguyện,
đều được độ). Lúc pháp diệt tận mà gặp bộ kinh này, gặp
được hồng danh sáu chữ này, sẽ đều
có thể đắc độ, hà huống hiện tại!
Hiện thời, hăy c̣n chín ngàn năm nữa kinh đạo
mới diệt tận. Do vậy, chúng ta phải có tín
tâm, đừng bị những lời đồn đại
bên ngoài lay động, hễ tâm chúng ta định th́ định
sanh trí huệ, sẽ biết ứng phó với những tai
nạn trước mắt như thế nào. Có tín tâm, có quyết
tâm, chúng ta sẽ có thể b́nh an vượt qua.
Lại
xem đoạn kinh văn tiếp theo: “Hựu Pháp Diệt Tận Kinh” (Lại nữa,
kinh Pháp Diệt Tận), trong bộ kinh này, đức Phật
giảng trạng huống diệt tận của Phật
pháp trên thế gian này trong tương lai sau khi pháp vận của
đức Phật kết thúc, “diệc
cụ Vô Lượng Thọ kinh tối hậu nhập diệt
chi t́nh cảnh” (cũng nói chi tiết t́nh cảnh kinh Vô
Lượng Thọ sẽ diệt cuối cùng), kinh ấy
nói Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh bị diệt
cuối cùng. Nay chúng ta gặp được bộ kinh này
quá đáng quư! Chúng ta phải quư trọng, phải nghiêm túc học
tập. “Thử chánh hiển bổn
kinh hưng khởi chi thắng duyên, tŕ danh pháp môn chi diệu
dụng”: Đây chính là tŕnh bày rơ rệt nhân duyên hưng
khởi thù thắng của bộ kinh này và tác dụng mầu
nhiệm của tŕ danh niệm Phật văng sanh Tịnh
Độ. Tiếp theo là tỷ dụ: “Kư như dinh dưỡng phong phú chi mỹ thực, khả
tăng kiện giả chi thể lực” (giống
như thức ăn ngon lành dồi dào chất bổ có thể
tăng cường thể lực của người khỏe
mạnh). Kinh điển này, pháp môn này, giống như thực
phẩm ngon lành giàu chất bổ dưỡng nhất, bồi
bổ Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. “Phục như thù hiệu thần
nghiệm chi linh dược” [có nghĩa là] lại giống
như toa thuốc có hiệu quả đặc thù, hay toa
thuốc thần kỳ. “Năng
dũ bất trị chi trầm kha” (có thể trị
lành căn bệnh trầm kha chẳng trị được).
Vài hôm trước, chúng ta thấy đồng tu Lưu Tố
Vân ở Đông Bắc mắc chứng Hồng Ban Tánh Lang
Sang (Systemic Lupus Erythematosus), tật bệnh hết sức nghiêm
trọng, người mắc bệnh này gần như rất
khó sống sót. Bà ta đă chứng minh cho chúng ta thấy: Niệm
một câu Nam-mô A Di Đà Phật nghiễm nhiên trị lành
căn bệnh này. Lành đến mức độ nào? Ngay
cả vết sẹo cũng không có, đây là chuyện chẳng
thể nghĩ bàn! Bác sĩ phụ trách điều trị
cho bà ta kinh ngạc, dẫu lành bệnh, những vết sẹo
ấy vĩnh viễn chẳng mất được, v́
sao ngay cả vết sẹo cũng chẳng có? Bác sĩ hỏi
bà ta: “Bà lành bệnh bằng cách nào?” Bà ta bảo bác sĩ: “Tôi
niệm A Di Đà Phật nên được lành bệnh”.
Bác sĩ tin lời bà ta, v́ sao tin tưởng? Bà ta suốt
đời chưa nói dối, đối với bất luận
là ai cũng đều là nói thật, chẳng nói dối; v́
thế, bác sĩ tin lời bà ta. Bà ta bảo niệm Phật
lành bệnh th́ chắc chắn là do niệm Phật mà lành bệnh,
tạo ḷng tin cho mọi người!
Do vậy, thân mắc
cả đống bệnh tật, xét về hiệu quả
của thuốc men, thuốc tốt nhất chỉ có hiệu
quả trị liệu ba phần, bảy phần tùy thuộc
vào tâm thái (trạng thái tâm lư). Nếu quư vị tâm thái tốt
đẹp, bệnh ấy sẽ rất dễ chữa trị.
Nếu tâm thái chẳng tốt lành, thường nghĩ
đến bệnh tật, sợ hăi, lo âu, bệnh ấy cũng
rất khó lành, chẳng dễ ǵ lành bệnh! Do vậy, Lưu
cư sĩ đă cho chúng ta biết: Căn bệnh của
bà ta được lành là do bà ta chẳng sợ hăi chút nào!
Bác sĩ bảo bà ta: “Bệnh của bà rất nghiêm trọng,
có thể chết bất cứ lúc nào, phải chuẩn bị
tâm lư”. Bà ta cười bảo bác sĩ: “Chẳng sao hết!
Nếu tôi chết, tôi sẽ về thế giới Cực
Lạc, A Di Đà Phật đến đón tiếp tôi, Tây
Phương Cực Lạc thế giới là quê nhà của
tôi. Nếu là Phật vẫn c̣n giao cho tôi nhiệm vụ ǵ
đó, muốn tôi ở lại thế gian này th́ cũng
được, tôi vâng lời”. Quư vị thấy: Chẳng
có mảy may lo nghĩ hay kinh sợ, tâm thái quá tốt đẹp,
dường như chẳng có chuyện ấy, bà ta thật
sự lành bệnh tật! Tiếp đó, [sách Chú Giải]
nói “có thể chữa lành bệnh chẳng trị được”,
bà ta đúng là đă trị lành căn bệnh nặng. “Quảng liệu chúng bệnh, phổ
thí nhiêu ích” (Rộng trị các bệnh, ban lợi lạc
trọn khắp). “Cố vân: Đại
tai diệu dụng, bất khả tư nghị” (V́ thế,
nói: “Tác dụng mầu nhiệm lớn lao thay, chẳng thể
nghĩ bàn”). Hai câu này là lời tán thán nhằm ca ngợi pháp
môn này, tán thán hiệu quả của tŕ danh niệm Phật.
Quư vị thấy trong hiện tiền, [pháp môn Niệm Phật]
có thể trị bệnh, sau khi lâm chung có thể văng sanh, pháp
môn như thế có thể đến nơi đâu để
t́m được? Nay chúng ta gặp được, đă
gặp th́ nhất định phải biết quư trọng,
thật sự tu tập.
“Chí ư mạt thế” (C̣n
như trong đời Mạt Pháp), chữ “mạt thế” chỉ thời kỳ Mạt Pháp
của Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là trong một vạn năm.
Thời Mạt Pháp đă trải qua một ngàn năm, chúng
ta sống nhằm lúc bắt đầu một ngàn năm
thứ hai trong thời Mạt Pháp, sau này c̣n có một ngàn
năm thứ ba, một ngàn năm thứ tư, cho đến
một ngàn năm thứ mười. V́ vậy, thời
gian vẫn c̣n rất lâu. “Chí
ư mạt thế, trược ác di thâm, chúng căn dũ
liệt, nhân thọ thập tuế, cấu trọng chướng
thâm, ư tư, ác lăng thao thiên, độc diệm biến
địa chi tế” (C̣n như trong đời Mạt
Pháp, nhơ bẩn, ác độc sâu khắp, các căn tánh
càng kém hèn, con người thọ mười tuổi, cấu
nặng, chướng sâu; vào thuở ấy, sóng ác ngập
trời, lửa độc trọn khắp cơi đất).
Chúng ta đọc mấy câu này, thấy chúng nói về hiện
tượng xă hội trong đời Mạt Pháp; tuy chúng ta
chưa sống nhằm cuối đời Mạt Pháp của
Thích Ca Mâu Ni, nhưng hiện thời đă có đôi chút hiện
tượng này, chúng ta chớ nên không cảnh giác. “Trược” (濁) là ô nhiễm, trên cả thế giới
hiện thời, mọi người đều bàn tới chuyện
“bảo vệ môi trường”; v́ sao phải bảo vệ
môi trường? Địa cầu bị ô nhiễm, ô nhiễm
rất nghiêm trọng! Hoàn cảnh bị ô nhiễm, nhưng
càng nghiêm trọng hơn là cái tâm thanh tịnh của chúng ta
bị ô nhiễm. Do vậy, người trong thế gian này
nói đến chuyện bảo vệ môi trường, có thể
thu được hiệu quả hay chăng? Có người
hỏi tôi, tôi nói thật với họ: “Rất khó thu
được hiệu quả”. V́ sao? Trong Phật pháp có một
câu nói nói rất hay: “Cảnh
chuyển theo tâm”. Bên ngoài là hoàn cảnh, hoàn cảnh bị
ô nhiễm có mối liên quan với ḷng người. Trong tâm
ô nhiễm nghiêm trọng, nếu chẳng hóa giải chuyện
này, chúng ta chỉ chú trọng hoàn cảnh bên ngoài, sẽ chẳng
thu được hiệu quả. Do vậy, bảo vệ
môi trường th́ điều đầu tiên là phải nói
đến bảo vệ tâm lư. Tâm chúng ta vốn tốt
đẹp, nếu nói theo Đại Thừa Phật pháp,
[tâm ta] vốn thanh tịnh, vốn b́nh đẳng, vốn giác,
chứ chẳng mê, nhưng nay chẳng phải vậy! Hiện
thời là ô nhiễm, chẳng phải là thanh tịnh, mà là
ngạo mạn, kiêu căng, bất b́nh, [tức là] chẳng
hề b́nh đẳng, ngu si, mê hoặc, cho nên trí huệ và
giác ngộ chẳng thể hiện tiền. Đây là tâm lư bị
ô nhiễm hết sức nghiêm trọng.
Có
nhiều người hỏi tôi, đối với những
tai nạn trước mắt này, dùng phương pháp ǵ
để đối phó? Thật ra, đức Phật và tổ
tiên đă dạy chúng ta hăy dùng phương pháp ǵ? Giáo học.
Trong thiên Học Kư [của sách Lễ Kư] có câu: “Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân
chúng, dạy học làm đầu). Dạy học là dạy
ǵ vậy? Dạy luân lư, khiến cho mọi người hiểu
mối quan hệ giữa con người với nhau, hiểu
rơ ràng các mối quan hệ, thực hiện trọn vẹn
những nghĩa vụ phải nên trọn hết. “Ngũ
luân, thập nghĩa, cha con có t́nh thân, cha từ, con hiếu”
là trọn hết nghĩa vụ, đó là điều phải
làm! Anh nhường, em kính, vua nhân từ, bầy tôi trung
thành, mỗi cá nhân làm tṛn nghĩa vụ, hiểu rơ các mối
quan hệ, thực hiện nghĩa vụ. Đấy chính
là sự hài ḥa trong vũ trụ: Xă hội là hài ḥa, gia
đ́nh ḥa thuận, thật sự là hạnh phúc mỹ măn trong
đời người, do đâu mà có? Do dạy dỗ mà
thành! Quư vị thấy tại Trung Quốc, suốt mấy
ngàn năm, có triều đại nào không coi trọng giáo dục.
Ở đây, giáo dục chẳng phải là dạy khoa học
kỹ thuật, mà là giáo dục cách làm người, cũng
là giáo dục nhân tánh. Giáo dục nhân tánh là ǵ? Vốn là lành!
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người thoạt đầu tánh vốn lành). Giáo
dục về cái vốn sẵn tốt lành [trong mỗi cá
nhân], đă dạy được như vậy th́ chuyện
ǵ, vấn đề ǵ cũng đều được giải
quyết. Sau khi đă dạy dỗ tốt đẹp, ai nấy
cũng là người tốt, người tốt chắc
chắn chẳng làm chuyện xấu; do vậy, mọi chuyện
đều là chuyện tốt. Sau khi làm được
điều này, sẽ là như kinh Phật đă dạy: “Nhật nhật thị hảo
nhật, thời thời thị hảo thời” (ngày nào
cũng là ngày tốt, giờ nào cũng là giờ tốt).
V́ thế, phương pháp để giải quyết và
đối phó là giáo dục. Hôm nay, tại đài truyền
h́nh Phượng Hoàng, họ cũng nêu ra vấn đề
này, tôi nói: “Chỉ cần thực hiện tốt giáo dục,
vấn đề sẽ được hóa giải. Giáo dục
luân lư, giáo dục đạo đức, giáo dục nhân quả,
lại c̣n phải giáo dục tôn giáo th́ xă hội mới được
kiện toàn, mới viên măn”.
Mọi
người đều biết trong các tôn giáo, [chỉ nói đến]
các tôn giáo cao cấp, có luân lư, đạo đức, nhân quả,
khoa học, triết học, chẳng phải là mê tín. Trên
thế giới này, nhiều người công nhận sáu tôn
giáo lớn; giáo nghĩa của sáu tôn giáo lớn ấy
đều có năm khoa mục ấy. Nếu mỗi tôn
giáo đều phổ biến, tuyên dương năm khoa mục
“luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học,
khoa học” đă được giảng trong kinh điển
để giáo hóa tín đồ, xă hội này sẽ ḥa thuận,
tai nạn sẽ được hóa giải. Chỉ cần
chúng ta chịu nỗ lực làm việc này, tôi tin tưởng
mỗi tín đồ tôn giáo đều vui ḷng, nhất là hiện
thời nh́n thấy tai nạn ngay trước mắt, họ
sẽ đồng tâm hiệp lực hóa giải tai nạn.
Hóa giải từ chỗ nào? Hóa giải ngay trong tâm hạnh
của chúng ta. Thật vậy ư? Đúng vậy! Cảnh
chuyển theo tâm. Kinh Phật dạy như thế dường
như thiếu căn cứ khoa học, chúng ta rất khó
tin tưởng. Hết sức khó có là tiến sĩ Giang Bổn
Thắng của Nhật Bản đă làm thí nghiệm trên
nước suốt mười hai năm nhằm chứng minh
vật chất, nước là khoáng vật, chẳng phải
là động vật, mà cũng chẳng phải là thực
vật, chẳng phải là sinh vật, mà là khoáng vật,
thí nghiệm mười mấy năm, [quan sát thấy] khoáng
vật có thể nghe, nh́n, hiểu được ư nghĩ
của con người, nước có năng lực ấy.
Trong kinh điển, đức Phật dạy chúng ta: Tất
cả hết thảy khoáng vật đều có năng lực
ấy, đều có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Khoa
học phân chia cái vốn là một ấy thành hai
phương diện: Tinh thần và vật chất. Trong pháp
Đại Thừa, tinh thần và vật chất đồng
nhất, chẳng thể phân cách!
Trong
tinh thần có vật chất, trong vật chất có tinh thần.
Tất cả vật chất có thể thấy, nghe, hiểu
ư nghĩa của con người, nó có tinh thần trong ấy.
Trong tinh thần có vật chất, chúng ta chứng minh bằng
cách nào? Thật ra, bản thân mỗi cá nhân đều có thể
chứng tỏ! Đêm ngủ nằm mộng có phải là
hiện tượng tinh thần hay chăng? Nó chẳng phải
là hiện tượng vật chất, ban đêm nằm mộng
là hiện tượng tinh thần. Trong giấc mộng, có
vật chất hay không? Trong mộng quư vị có thân thể
hay không? Quư vị mộng thấy rất nhiều người,
quư vị nói họ có thân thể hay không? Trong mộng có núi,
sông, đại địa, trong mộng có hư không, pháp giới?
Có! Có hiện tượng vật chất! Trong tinh thần
có hiện tượng vật chất. Mọi người
đều có kinh nghiệm này, có kinh nghiệm nằm mộng,
sau khi tỉnh giấc, thứ ǵ cũng đều chẳng
có. Đó là ǵ? Kinh Phật dạy: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng”, nhưng trong lúc nằm mộng, thật sự
có hiện tượng, người ấy không biết ḿnh
đang nằm mộng, tưởng là thật; chứng tỏ
vật chất và tinh thần vĩnh viễn chẳng tách rời,
là một, chẳng hai. Do vậy, khởi tâm động niệm
của con người không chỉ gây ảnh hưởng tới
thân thể. Chúng ta có thiện niệm th́ sẽ khỏe mạnh,
trường thọ, đẹp đẽ, chân thiện mỹ
huệ. Tư tưởng và hành vi lành mạnh tương ứng
với luân lư và đạo đức. Nếu trái nghịch
luân lư và đạo đức, hằng ngày nghĩ tưởng
tham, sân, si, mạn, gây tạo giết, trộm, dâm, dối,
chắc chắn thân thể chẳng khỏe mạnh, tướng
mạo chẳng dễ coi, mà cũng ở trong hoàn cảnh lắm
tai nhiều nạn, đấy là ǵ? Vật chất bị ảnh
hưởng bởi tinh thần. Chúng ta phải dùng thiện
niệm để ảnh hưởng nó, đừng nên
dùng ác niệm, các tai nạn ấy đều do tâm hạnh
bất thiện cảm ứng. Phật, Bồ Tát, các bậc
đại thánh đại hiền xưa nay trong ngoài nước
đă dạy bảo chúng ta như vậy, chúng ta nên lư giải,
nghiêm túc học tập, sẽ thật sự có thể hóa
giải, chẳng giả đâu nhé!
Mạt
Pháp chẳng bằng Tượng Pháp, Tượng Pháp chẳng
bằng Chánh Pháp. Một ngàn năm thứ nhất sau khi Thích
Ca Mâu Ni Phật nhập diệt là thời Chánh Pháp, nhân tâm
thuần hậu, thật thà, vâng lời, thật sự tu tập;
do vậy, giới luật thành tựu, chỉ cần nghiêm
túc giữ giới luật tốt đẹp, người ấy
có thể chứng quả, chứng quả A La Hán rất
nhiều. Thời kỳ Tượng Pháp, căn tánh của
con người kém hơn thời Chánh Pháp, chỉ tŕ giới
sẽ chẳng thể chứng quả, v́ sao? Tŕ giới chẳng
thuần! Bên trong có phiền năo, có tập khí, bên ngoài có
ngũ dục lục trần dụ dỗ, mê hoặc; chỉ
dựa vào một ḿnh tŕ giới sẽ chẳng thể nhiếp
tâm. V́ thế, thời kỳ Tượng Pháp, Thiền
Định thành tựu, tu Định; tu Định là
thích hợp! Thời kỳ Mạt Pháp, tu Định
cũng không được, v́ sao? Phiền năo tập khí quá
nặng, mà sức dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài quá mạnh,
trong ứng, ngoài hợp, cho nên tu Thiền chẳng thể
đắc định, học giáo chẳng thể khai ngộ,
v́ sao? Bộp chộp, hời hợt. Đây là hiện
tượng trong hiện tại, trược ác trọn khắp,
sâu đậm, ngày càng sâu hơn, căn tánh ngày càng kém cỏi.
Con người thọ mười tuổi, trong kinh, đức
Phật dạy chúng ta ngày nay sanh nhằm giai đoạn được
gọi là Giảm Kiếp. Thọ mạng con người
lúc dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm, lúc ấy tuổi
thọ dài nhất. Giảm Kiếp là từ tám vạn bốn
ngàn tuổi, cứ mỗi một trăm năm lại giảm
một tuổi, giảm đến mười tuổi.
Mười tuổi là thấp nhất, chẳng c̣n giảm
nữa. Từ mười tuổi, cứ mỗi một trăm
năm lại tăng thêm một tuổi, lại tăng cho
đến tám vạn bốn ngàn tuổi. [Thời gian] một
tăng một giảm này được gọi là một
tiểu kiếp. Chúng ta hiện đang sống trong giai
đoạn Giảm Kiếp này. Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
thế, tuổi thọ con người là một trăm năm,
cứ một trăm năm giảm một tuổi, đến
nay đă ba ngàn năm rồi; v́ vậy, tuổi thọ b́nh
quân (trung b́nh) của con người trong hiện tại là bảy
mươi năm. Chúng ta thấy người Trung Quốc thường
nói: “Nhân sinh thất thập cổ
lai hy” (người sống đến bảy
mươi tuổi xưa nay hiếm), sống trong Giảm
Kiếp, bảy mươi tuổi! Cứ một trăm năm
giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi
th́ c̣n có sáu ngàn năm nữa. Tới sáu ngàn năm sau, khi
đó là lúc ô nhiễm, nghiệp chướng cực nặng,
con người sẽ quay đầu vào lúc ấy, v́ sao? Chịu
quả báo quá khổ sở. Kẻ đă bị đau khổ
tột bậc sẽ quay đầu, tỉnh ngộ. Tỉnh
ngộ sẽ tiếp nhận giáo huấn của Phật,
Bồ Tát, tiếp nhận giáo huấn của thánh hiền.
“Ư tư, ác lăng thao thiên”
(trong khi ấy, sóng ác ngập trời), Ác ở đây là Thập
Ác, nh́n vào [t́nh h́nh] hiện thời của chúng ta thấy rất
tương tự, do vậy, có tai nạn. Ác là nói tới Thập
Ác, quư vị nghĩ xem: Ta rất lắng ḷng, quan sát khách
quan, sẽ thấy nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp
trong xă hội này đang suy tưởng ǵ? Họ nghĩ tới
sát sanh, trộm cắp! Sát sanh là ǵ? Tổn hại người
khác ḥng làm lợi cho bản thân, điều này thuộc về
sát sanh. Trộm cắp là trong mỗi niệm đều chiếm
tiện nghi của người khác. Nói cách khác, khởi tâm
động niệm đều là tổn người lợi
ḿnh, có ư niệm này. Chẳng hề thấy con người khởi tâm động niệm “tổn
hại chính ḿnh để tạo lợi ích cho người
khác”, [nếu có ư niệm] như vậy th́ mới có thể
tiến cao hơn. Khởi tâm động niệm toàn là tổn
người lợi ḿnh th́ c̣n làm sao được nữa?
Ai nấy đều tổn người lợi ḿnh, lẽ
nào chẳng phát sanh xung đột? Do vậy, xung đột
ngày càng nhiều! Vô lượng vô biên vô tận xung đột,
hóa giải bằng cách nào? Trong quá khứ, tôi đă nhiều
lần tham dự hội nghị ḥa b́nh của Liên Hiệp
Quốc, chủ đề thảo luận là hóa giải
xung đột. Từ trong gia đ́nh, vợ chồng xung
đột, cha con xung đột, anh em xung đột, xóm giềng
xung đột, cho đến trong xă hội các sắc dân
xung đột, quốc gia xung đột, thậm chí xung
đột văn hóa, xung đột tôn giáo, quá nhiều mối
xung đột dẫn đến động loạn, chiến
tranh, tai họa tầy trời, sóng ác ngập trời. “Lửa độc”, độc
là ǵ? Ngũ độc, tức tham, sân, si, mạn, nghi; tham,
sân, si, mạn là độc. Nghi là ǵ? Hoài nghi giáo huấn của
thánh hiền. Quư vị thấy Phật, Bồ Tát, cổ
thánh tiên hiền cũng xếp điều này (Nghi) vào độc,
coi nó là một trong năm thứ độc. Giáo huấn của
thánh hiền là những thứ tốt đẹp mà quư vị
hoài nghi, chẳng chịu tiếp nhận, không chịu học
tập, chẳng thể phụng hành. Nói cách khác, giáo huấn
của thánh hiền nhằm cứu vớt, chữa trị
quư vị. Quư vị khắp thân bệnh nặng, lại chẳng
chịu tiếp nhận trị liệu, chẳng phải là
chỉ c̣n con đường chết hay sao? Xă hội ngày
nay khiến cho chúng ta cảm giác “sóng
ác ngập trời, lửa độc khắp đất”.
Vậy th́ thế gian sẽ có đại tai nạn hiện
tiền, đó là đạo lư tất nhiên.
Nhằm
hóa giải tai nạn này, quư vị tin tưởng, chúng ta
buông tham, sân, si, mạn, nghi xuống. V́ thế, đức Phật
dạy chúng ta hai câu, vấn đề sẽ được
giải quyết: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng
tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si),
vấn đề sẽ bị hóa giải. Chúng ta có chịu
làm hay không? Giới là ǵ? Giới là quy củ. Đệ Tử
Quy là giới [của Nho gia], Cảm Ứng Thiên là giới của
Đạo Gia, Thập Thiện Nghiệp Đạo là giới
[của nhà Phật]; ba căn cội Nho, Thích, Đạo này
thuộc về giới, chúng ta có thể tuân thủ, phụng
hành. Những thứ ấy là giáo huấn của thánh hiền,
chúng ta đừng hoài nghi, hăy nên tin tưởng, giống
như Phu Tử đă nói: “Tín nhi
hiếu cổ” (tin tưởng, chuộng cổ). Cổ
thánh tiên hiền truyền lại, chúng ta nghiêm túc nỗ lực
phụng hành, sửa trừ thói xấu và tập khí, tự
ḿnh sẽ đắc độ. Tự ḿnh đắc độ,
sẽ ảnh hưởng cả nhà, người nhà quư vị
đều vui vẻ, họ sẽ học theo quư vị,
người trong nhà quư vị đắc độ. Người
nhà đắc độ, xóm giềng, thân thích, bằng hữu
trông thấy sẽ học theo quư vị, toàn bộ đều
đắc độ, dần dần ảnh hưởng xă
hội. Nếu quốc gia giác ngộ, không chỉ cứu
đất nước, mà c̣n cứu toàn bộ thế giới!
Quốc gia đề cao ba món căn bản của Nho, Thích,
Đạo, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp cùng
nhau học tập, dùng Internet và phương tiện truyền
thông để đề xướng rộng răi. Do vậy,
tôi thường nói: Nếu quốc gia thật sự làm
theo cách này, trong ṿng một năm quốc gia sẽ an định,
thái b́nh. Một quốc gia thu được hiệu quả
tốt đẹp ngần ấy, các quốc gia khác sẽ
đến học tập, ba năm, tối đa là năm
năm, thế giới này an định, ḥa b́nh, tai nạn
ǵ cũng đều không có! Trong kinh, đức Phật dạy
chúng ta: Niệm lực của chúng ta không chỉ ảnh
hưởng thân tâm của chính ḿnh, mà c̣n ảnh hưởng
hoàn cảnh xung quanh, lại c̣n có thể ảnh hưởng
tới quỹ đạo của các tinh cầu trong vũ
trụ. Hễ chánh niệm th́ các tinh cầu [vận chuyển]
b́nh thường, sẽ chẳng lệch quỹ đạo.
Sức mạnh to dường ấy, bất luận là Thái
Dương hệ, bất luận Ngân Hà hệ, nó có sức
mạnh to lớn ngần ấy. Chúng ta có thể tin tưởng
hay chăng? Tôi tin các đồng học
đă học Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên sẽ
tin tưởng [chuyện này], v́ sao? Nửa phần trước
trong bài luận văn ấy của Hiền Thủ quốc
sư đă giảng thấu triệt duyên khởi vũ trụ.
Vũ trụ h́nh thành ra sao? Vạn pháp xuất hiện như
thế nào? Huệ Năng đại sư khi khai ngộ
đă nói: “Tự tánh có thể
sanh ra vạn pháp”, ta do đâu mà có, đă hiểu rơ
ràng, minh bạch toàn bộ, quư vị bèn biết sức mạnh
của niệm lực quá to lớn!
Những
điều được giảng trong bài văn ấy là
thật, chẳng giả. Bài văn ấy giảng về
kinh Hoa Nghiêm, giảng giải tinh hoa kinh Hoa Nghiêm. “Vọng” là
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, buông
hết những thứ ấy xuống, đoạn sạch
chúng, quư vị sẽ trở về nguồn (hoàn nguyên). Hoàn
nguyên là ǵ? Nói theo Phật pháp, “hoàn
nguyên” là thành Phật. Phật là ǵ? Người Ấn
Độ gọi là Phật, người Trung Quốc gọi
là “thánh nhân”. Chúng ta tán thán Khổng lăo phu tử là Chí Thánh,
[gọi Ngài là] Chí Thánh Tiên Sư. Dùng tiếng Hán để tán
thán Thích Ca Mâu Ni Phật th́ phải là Chí Thánh Bổn Sư,
chúng ta gọi Thích Ca Mâu Ni Phật là Bổn Sư, Phật là
bậc Chí Thánh. Người Ấn Độ gọi là Phật,
chúng ta gọi là Chí Thánh, cùng một ư nghĩa. Phật Thích
Ca là vị thầy căn bản của chúng ta, nên chúng ta gọi
Ngài là Chí Thánh Bổn Sư, dùng cách nói này của người
Hoa sẽ dễ hiểu, rất dễ lănh hội! Ngài chẳng
phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên. Thuở
tại thế, Ngài khai ngộ lúc ba mươi tuổi; sau
khi khai ngộ liền tiến hành dạy học suốt một
đời, bảy mươi chín tuổi viên tịch, giảng
kinh, giáo học bốn mươi chín năm. Nói theo cách bây
giờ, chức nghiệp của Ngài là thầy. Lại c̣n
hết sức khó có, Ngài đă trọn hết nghĩa vụ
của một vị thầy, chẳng lấy học phí.
Nhiệt tâm dạy học, dạy dỗ chẳng phân biệt,
bất luận người nào, quốc gia khác biệt, dân
tộc khác biệt, văn hóa khác biệt, tôn giáo, tín ngưỡng
khác biệt, chỉ cần quư vị t́m đến Ngài, Phật
đều rất hoan hỷ, hết sức sốt sắng
dạy quư vị, một vị thầy tốt đẹp
dường ấy! Chúng ta được biết Ngài, học
tập theo Ngài, quá sức may mắn dường ấy! Thầy
hiện thời chẳng tại thế, chẳng sao hết!
Tài liệu giảng dạy của Ngài vẫn c̣n trong thế
gian này, tài liệu ấy chính là Đại Tạng Kinh. Những
kinh điển trong Đại Tạng Kinh chính là tài liệu
dạy học thuở Ngài tại thế, chúng ta có
được tài liệu này giống như thân cận lăo
nhân gia, chẳng khác ǵ! Nay chúng ta gặp phải hoàn cảnh
hiện tượng, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật
chất này, quả thật rất giống hiện tượng
lúc pháp diệt, tám chữ “sóng
ác ngập trời, lửa độc khắp đất”
[miêu tả hiện tượng ấy], nhưng đấy
là tương tự, chẳng phải là thật sự.
Lúc
con người thọ mười tuổi là thật, v́ sao?
Họ nhiễm tập khí quá nặng, Phật, Bồ Tát tới
dạy, nhưng họ không quay đầu. Do vậy, cứ
dần dần, mỗi trăm năm tăng lên một tuổi,
tăng từ từ, thọ mạng càng dài, phước
báo to lớn. Đây gọi là “phước
chí tâm linh”, phước báo to, dần dần trí huệ
hiện tiền. Tăng kiếp và giảm kiếp khác nhau,
trong lúc giảm kiếp, kẻ phước báo lớn sẽ
tạo ác to hơn. Lúc tăng kiếp, kẻ có phước
báo lớn sẽ tu thiện càng lớn hơn, khác nhau ở
chỗ này! Chúng ta phải quan sát kỹ càng, chú tâm thấu
hiểu, sẽ có thể đạt được. V́ sao
chúng ta nói sự mê hoặc trong hiện tại là nhất thời,
rất dễ đánh thức họ? Trong quá khứ, chúng
tôi đă làm thí nghiệm tại Thang Tŕ, hoàn toàn dùng Đệ
Tử Quy để dạy học, mới ba năm, ḷng
người đă thật sự quay đầu, giác ngộ,
khiến cho chúng tôi biết nhân dân dễ dạy như thế
nào! Khiến cho chúng tôi tin tưởng tổ tiên đă nói
chẳng sai: “Nhân chi sơ, tánh bổn
thiện”, đáng tiếc là chẳng ai dạy họ. Hễ
được dạy, họ sẽ quay đầu, đây
là nói họ “có lương tâm”, có thể phân biệt thiện
ác; do không có ai giảng giải nên chịu ảnh hưởng
bên ngoài rất lớn. Nếu được dạy dỗ
trực tiếp, thường xuyên nhắc nhở họ, họ
sẽ quay đầu rất nhanh. Trong [giai đoạn cuối
của] thời Mạt Pháp, vấn đề ấy nghiêm
trọng hơn so với chúng ta trong hiện tại. “Thế Tôn thùy từ” (đức
Thế Tôn rủ ḷng Từ), đây là nói Thích Ca Mâu Ni Phật
từ bi đến cùng cực, lưu lại kinh Vô Lượng
Thọ; “đặc lưu thử
pháp”, “thử pháp” là kinh Vô
Lượng Thọ. V́ trong lúc ấy, chỉ có bộ kinh
này, chỉ có phương pháp tŕ danh này là có thể độ
chúng sanh. “Dĩ tác từ hàng,
dĩ giáng cam lộ” (làm chiếc bè từ, tuôn cam lộ),
“từ hàng” là tỷ dụ chiếc
thuyền trong biển cả khiến cho quư vị có thể
vượt biển. “Cam lộ”
(Amrta) cũng là tỷ dụ, cam lộ là thức uống của
chư thiên, chẳng hạn như Đao Lợi Thiên, thức
uống tốt nhất trong cơi trời Đao Lợi là cam
lộ. Sánh ví bộ kinh như từ hàng, cam lộ. “Phật ân thâm trọng, phấn
thân nan báo” (ơn Phật sâu nặng, nát thân khó đền),
tri ân th́ quư vị mới biết cảm ơn, mới nghĩ
đến báo ân. Nếu chẳng biết ân đức này,
làm sao quư vị có ư niệm cảm ơn? Càng không thể
nghĩ đến báo ân, những điều này hoàn toàn cậy
vào giáo học. Chúng ta học tập phần Giáo Khởi
Nhân Duyên tới đây.
Tiếp
đó, đoạn lớn thứ hai là Bổn Kinh Thể Tánh
(Thể tánh của kinh này), Đoạn này có ư nghĩa khá
sâu! Thể là ǵ? Là sở y (cái để giáo nghĩa
nương tựa vào, căn bản để lập ra
giáo nghĩa). Những lư luận được giảng,
phương pháp được sử dụng, cảnh giới
sẽ đắc trong kinh điển này dựa trên đạo
lư nào? Nếu chẳng hiểu rơ điều này, tín tâm của
chúng ta chẳng thể kiến lập; thật sự có đạo
lư, chúng ta sẽ tin tưởng! Đức Phật nương
vào ǵ để nói, nương vào ǵ để chỉ dạy
chúng ta? Xin xem kinh văn: “Nhất
thiết Đại Thừa kinh điển giai dĩ Thật
Tướng vi kinh chánh thể” (hết thảy kinh
điển Đại Thừa đều lấy Thật
Tướng làm Chánh Thể của kinh), câu này trước
hết nêu ra kinh thể. Quư vị thấy hết thảy kinh
điển Đại Thừa, không riêng ǵ bộ kinh này,
đều lấy Thật Tướng [làm Thể]. Thật
Tướng là ǵ? Chân tướng sự thật là Chánh Thể.
Nói cách khác, hết thảy kinh Đại Thừa đều
là giảng Thật Tướng chân thật của vũ trụ
và nhân sinh; sự thật là như thế nào, kinh bèn nói
như thế đó, nhất định hoàn toàn
tương ứng với sự thật. Chúng ta muốn liễu
giải Thật Tướng của vũ trụ và nhân
sinh, kinh bèn giảng cho chúng ta điều ấy, chẳng
giả! Lúc tôi mới học Phật, theo học triết học
với tiên sinh Phương Đông Mỹ, thầy Phương
giới thiệu kinh Phật với tôi, nói như thế
nào? Bảo đấy là triết học. Tôi học triết
học với thầy, chẳng học tôn giáo, tôi nói: “Kinh Phật
là tôn giáo, trong tôn giáo đâu có triết học? Mê tín!” Tuổi
trẻ, thiếu trí huệ, người ta nói sao nghe vậy,
lầm tưởng Phật giáo là tôn giáo, là mê tín; do vậy,
chưa hề nghĩ muốn tiếp xúc Phật giáo, chưa
từng. Lúc thầy giới thiệu, đă hết sức trịnh
trọng nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật
là bậc triết gia vĩ đại nhất thế giới,
kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học
toàn thế giới, học Phật là hưởng thụ
cao nhất trong đời người”. Tôi theo học
môn ấy với cụ mới thay đổi toàn bộ
quan niệm sai lầm, thầy đặc biệt cảnh
tỉnh tôi: “Triết học của
kinh Phật không ở tại chùa chiền”. Chùa chiền
chẳng phải là chuyên môn học Phật ư? Thầy
nói: “Trước đây,
đúng là như vậy. Hiện thời chẳng c̣n nữa.
Trước kia, người xuất gia đúng là những
vị đại học vấn, có đạo đức, có
học vấn. Hiện thời, họ chẳng học,
chùa chiền có kinh điển, họ niệm kinh chứ chẳng
nghiên cứu, chẳng nương theo giáo huấn trong kinh
điển để học tập. Do vậy, anh phải
học tập triết học trong kinh Phật, phải khởi
sự từ kinh điển”. Thầy bảo tôi điều
này, câu nói ấy vô cùng quan trọng. Nếu chẳng
được nhắc nhở bởi câu ấy, tôi đến
chùa miếu t́m gặp các vị xuất gia, thỉnh giáo họ.
Họ chẳng có cách ǵ trả lời, tôi sẽ hoài nghi lời
thầy Phương có vấn đề, ḷng tin vào thầy
bị dao động. Khéo sao, thầy nói câu ấy, bảo
tôi t́m ṭi trong kinh điển, không cần phải đến
hỏi bọn họ, hăy trực tiếp t́m từ kinh
điển.
Không
lâu đó, tôi được biết Chương Gia đại
sư. Giống như thầy Phương, Chương Gia
đại sư vô cùng yêu thương tôi, rất quan tâm dạy
dỗ. Lăo nhân gia dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, bảo
tôi đọc Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí. Đó
là truyện kư về Thích Ca Mâu Ni Phật trong Đại Tạng
Kinh do người đời Đường viết. Chúng
tôi liễu giải cuộc đời Thích Ca Mâu Ni Phật,
đă hiểu rơ đức Phật. Nếu quư vị học
Phật mà chẳng biết ǵ về Thích Ca Mâu Ni Phật, sự
học tập của quư vị có vấn đề, rất
dễ ngả theo thiên kiến, đi vào lối rẽ, [nói
theo kiểu] người hiện thời là đi đường
ṿng. Quư vị nhận biết Thích Ca Phật rơ ràng, sẽ
chẳng đi ḷng ṿng, lời chỉ đạo này hết
sức hay! Chương Gia đại sư khuyên tôi xuất
gia, tôi rất vâng lời, v́ tôi không có gia quyến tại Đài
Loan. Cha tôi đă mất sớm, mẹ c̣n có một em trai ở
Đại Lục [chăm sóc]. Khi ấy, tin tức chẳng
thông, suốt cả ba mươi sáu năm chẳng có tin tức
ǵ, đôi bên chẳng biết t́nh h́nh của nhau. Do vậy,
tôi là một người chẳng lo âu ǵ ở Đài Loan,
thầy bảo đi xuất gia, được! Chuyên dồn
công sức nơi Phật pháp. Tôi xuất gia là giảng học,
tức là dạy học. Tôi học Phật bảy năm rồi
xuất gia, xuất gia xong bèn dạy tại Phật Học
Viện, ngoài dạy học ra, nhận lời mời giảng
kinh. Giảng suốt năm mươi chín năm chẳng
ngừng, mỗi ngày đều giảng. Tôi ở Úc, trong
các trường đại học, hiệu trưởng
đại học Cách Lư Phỉ Tư (Griffith) mời tôi
dùng cơm, hỏi tôi một câu: “Thưa pháp sư, thầy
giảng kinh (lúc ấy đă giảng kinh bốn mươi
ba năm), trong bốn mươi ba năm, có khi nào gặp
phải trường hợp người khác hỏi mà thầy
chẳng thể trả lời?” Tôi suy nghĩ một chốc,
rồi bảo ông ta: “H́nh như không có!” Ông ta nói: “Thầy thật
sự là một vị hiệu trưởng giỏi”. V́ thế,
nhà trường tặng tôi học vị Tiến Sĩ, họ
chủ động trao tặng học vị Tiến Sĩ
cho tôi. Khi đó, tôi đă ngoài bảy mươi. Họ c̣n
phong cho tôi danh vị giáo sư danh dự. Giáo sư danh dự
(Honorary Professor) là ǵ? Đại khái là người ấy dạy
học ở trường của họ khá lâu năm, dạy
đă bao nhiêu năm, có cống hiến đối với sự
nghiệp giáo dục trong nhà trường. Một vị thầy
như vậy về hưu sẽ có một danh vị danh dự,
Giáo Sư Danh Dự, tức là Giáo Sư Danh Dự của
nhà trường. Mỗi khi nhà trường có lễ lạc
lớn, chẳng hạn như lễ khai trường, lễ
tốt nghiệp, đều mời những vị này tham
dự. Như vậy là nhà trường đă tặng tôi
danh vị như vậy, tham gia hoạt động của
trường, sau này, thật sự là đại biểu của
trường tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc.
Thưa quư vị,
nếu người ta hỏi quư vị: Thích Ca Mâu Ni Phật
suốt đời giảng kinh, rốt cuộc giảng những
ǵ? Giải đáp bằng một câu: “Giảng về Thật Tướng của vũ trụ
và nhân sinh”. Quư vị nói xem có phải là mê tín hay chăng?
Chẳng mê tín. Câu này rất trọng yếu; nếu không, quư
vị học Phật như thế nào? Tôi nhớ có một
năm, lúc tôi ăn Tết ở Đài Loan, có một đồng
học tới gặp tôi, ông ta là giáo sư đại học,
khi gặp tôi cho biết: Ở đại học Phụ Nhân,
trong chương tŕnh ngoại khóa, ông ta đă giảng cho
sinh viên một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm.
Ông ta kể với tôi [như vậy], tôi bảo: “Tốt lắm!
Rất khó có!” Lúc ấy, tại Đài Loan, phong khí học Phật
của sinh viên đại học rất thịnh, mỗi
trường đều thành lập Phật Học Xă. Tại
đại học Phụ Nhân là Đại Thiên Phật Học
Xă do các đồng học tổ chức nhằm học tập
Phật pháp. Tôi bèn hỏi ông ta một câu: “Tôi hỏi ông một
câu, ông hăy cho tôi biết những kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
giảng trong bốn mươi chín năm rốt cuộc là
giảng những ǵ? Ông hăy trả lời tôi bằng một
câu thôi!” Ông ta suy nghĩ khoảng năm phút, chẳng có cách
nào, bảo tôi: “Tôi nghĩ không ra câu trả lời, nghĩ
không ra!” Ông ta hỏi ngược lại tôi, tôi bảo:
“Trong kinh Phật có một câu, tức là kinh Bát Nhă giảng chư
pháp Thật Tướng, dùng câu này để trả lời
có được hay không?” Ông ta suy
nghĩ, gật đầu, được! “Chư pháp Thật Tướng” là Thật Tướng
của hết thảy các pháp. Chúng ta phải biết điều
này, đơn giản, dễ hiểu; [cách nói này đă]
tŕnh bày đơn giản, dễ hiểu cho người
khác biết những điều mà Thích Ca Mâu Ni Phật đă
suốt đời tu tập, học hỏi, dạy dỗ,
lưu truyền, kẻ ấy sẽ chẳng nói [Phật
giáo] là mê tín.
Chúng
ta xem tiếp, cụ Hoàng đă trích dẫn khá nhiều kinh
điển và lời nhận định của các tổ
sư đại đức. “Cổ
đức vân” (cổ đức nói), đây là những
vị đại đức từ xưa, các Ngài nói: “Chư Đại Thừa kinh
giai dĩ nhất Thật Tướng vi ấn” (các kinh Đại
Thừa đều lấy một Thật Tướng làm ấn).
Người Hoa hết sức coi trọng cái ấn, gọi
là “ấn tín”. Nói đến “đóng ấn” th́ cái ấn ấy
là quyết định! Ấn ấy là ǵ? Thật Tướng.
Nếu những điều được giảng trong kinh
điển là chân tướng của vũ trụ và nhân
sinh th́ kinh ấy do đức Phật nói. Chẳng [thật
sự] do đức Phật nói th́ sao? Chẳng do chính đức
Phật nói th́ cũng giống như do đức Phật nói,
v́ nói giống hệt như Phật. Do vậy, phải học
sự khoan dung rộng lượng ấy của Phật
giáo! Phật giáo thừa nhận: Nếu tất cả những
ǵ do người ta đă nói là chân tướng sự thật
th́ đều gọi là kinh Phật. Quư
vị thấy thái độ học vấn ấy, chẳng
chia đây kia, Phật thừa nhận, Bồ Tát cũng thừa
nhận: Quư vị nói đúng chân tướng sự thật.
Tiếp theo đó là giải thích: “Thật Tướng giả, chân thật chi tướng
dă” (Thật Tướng là tướng chân thật), là
chân tướng của vạn vật trong vũ trụ. “Hựu b́nh đẳng nhất
tướng dă” (mà cũng là một tướng b́nh đẳng),
câu này sâu lắm. Chúng tôi nói chân tướng của vũ trụ
và nhân sinh th́ quư vị dễ hiểu, c̣n nếu nói là “b́nh đẳng nhất tướng”
sẽ khó hiểu, v́ sao? Đây đúng là triết học
cao cấp, thầy Phương bảo là “tột đỉnh
của triết học”. Nói với quư vị: Hết thảy
các pháp b́nh đẳng, hết thảy các pháp có cùng một
thể tánh. Trong Phật pháp, thể tánh ấy được
gọi bằng danh từ Pháp Tánh, c̣n gọi là Chân Tánh, hay c̣n
gọi là Tự Tánh. Có đến mười mấy danh từ!
V́ sao đối với một chuyện mà đức Phật
nói nhiều danh từ thuật ngữ như thế? Nhằm
bảo quư vị đừng chấp tướng. Quư vị
chớ nên chấp trước, chỉ cần nói tới
chuyện này, c̣n dùng phương pháp ǵ để nói, dùng
danh từ ǵ để nói đều được, chớ
nên chấp tướng. Ngài dạy chúng ta buông chấp
trước xuống, mà chúng ta chấp tướng là trật
rồi! “Phàm những ǵ có h́nh
tướng đều là hư vọng”.
Do vậy,
Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta thái độ tu học: Khi lên
lớp nghe giảng, chúng ta đừng chấp
trước tướng ngôn thuyết, người giảng
nói sâu, hay nói cạn, nói dài, hay nói ngắn, chẳng sao cả,
chỉ cần nói đến chân tướng là được
rồi. Chúng ta xem kinh điển đừng chấp
trước tướng văn tự, đừng chấp
trước tướng danh tự. “Danh tự” là danh từ
thuật ngữ. Danh từ thuật ngữ là công cụ
để trao đổi ư kiến, không quan trọng, chúng
ta có thể thấu ư nghĩa, đó mới là quan trọng.
V́ thế, các danh từ thuật ngữ không quan trọng, đừng
chấp trước chúng. Hễ chấp trước là trật
rồi! Chẳng hạn như [các từ ngữ] “Phật,
Bồ Tát, chúng sanh” trong kinh Phật đều là tướng
danh tự, quư vị liễu giải ư nghĩa của chúng,
chớ nên chấp trước những danh tướng ấy.
Điều thứ ba rất trọng yếu, phải ĺa tướng
tâm duyên, quư vị chớ nên tự ḿnh nghĩ nó có ư nghĩa
ǵ. Hễ quư vị suy tưởng là trật rồi! Quư vị
chẳng cần suy nghĩ mà trực tiếp hiểu rơ, đấy
gọi là Ngộ. Nếu quư vị suy nghĩ sẽ là sai,
suy tưởng nó là ǵ bèn rơi vào ư thức. Ư thức là
phân biệt, chấp trước, quư vị rơi vào đó!
Đức Phật dạy hàng Bồ Tát, đó là những học
tṛ đă đăng đường nhập thất[1], chẳng phải là học tṛ thông
thường, mà là những học tṛ có thành tựu rất
khá, mà họ cũng chẳng được phép khởi tâm
động niệm. V́ vậy, lục căn tiếp xúc cảnh
giới lục trần, mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi,
lưỡi nếm, thân chạm, ư biết, lục căn
đối đăi cảnh giới lục trần chớ nên
khởi tâm, chớ nên động niệm, [nhưng vẫn
hiểu biết] rơ ràng, rành mạch, đó là ǵ? Trí huệ
Bát Nhă sẵn có trong tự tánh hiện tiền, đó là chân
trí huệ. Khởi tâm động niệm sẽ mê, v́ sao khởi
tâm động niệm lại mê?
Tại
Trung Quốc, quư vị đều biết, Huệ Năng
đại sư khai ngộ, minh tâm kiến tánh, tánh là Thật
Tướng. Tánh là như thế nào? Nó chẳng phải là
vật chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, không
thể diễn tả được! Không chỉ chẳng
diễn tả được, ngay cả suy tưởng cũng
chẳng thể suy tưởng, quư vị vừa nghĩ liền
rớt vào trong ư thức. Ngài khai ngộ,
Ngũ Tổ cũng khai ngộ, người khai ngộ nói
chuyện với người khai ngộ, tiện lắm! Lục
Tổ đă diễn tả tự tánh bằng năm câu nói,
câu đầu tiên là “hà kỳ tự
tánh, bổn tự thanh tịnh” (nào ngờ tự tánh vốn
tự thanh tịnh), “hà kỳ”
là không ngờ tới. Không ngờ tự tánh vốn
thanh tịnh, chưa bao giờ ô nhiễm. Thành Phật là
thanh tịnh, nay ở trong nhân gian tánh vẫn thanh tịnh.
Dẫu tạo tác tội nghiệp đọa vào A Tỳ
địa ngục, tánh vẫn thanh tịnh, thật vậy,
chẳng giả! Trong kinh Phật thường nói đến
các thứ ô nhiễm, quư vị thấy như chúng ta vừa
mới đọc: “Trược
ác di thâm, ác lăng thao thiên, độc diệm biến địa”
(Trược ác sâu xa, trọn khắp, sóng ác ngập trời,
lửa độc trọn đất), đó là ô nhiễm, ô
nhiễm chẳng liên quan ǵ đến tự tánh, cái ǵ bị
ô nhiễm? A Lại Da ô nhiễm, tự tánh chẳng thể
bị ô nhiễm. A Lại Da có sanh diệt, tự tánh chẳng
thể có sanh diệt. A Lại Da là ǵ? A Lại Da là vọng
tâm, là giả, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm quyết
định chẳng có sanh diệt, quyết định chẳng
bị lay động, quyết định
chẳng có ô nhiễm. Đấy là chân tâm, quư vị thấy
nó là con người thật sự của quư vị. Chúng ta
dùng chân tâm th́ là Phật, dùng vọng tâm th́ là phàm phu. Vọng
tâm là A Lại Da, A Lại Da là ǵ? Là tâm ư thức. Quư vị phải
nhớ: Tâm là vọng tưởng, ư là chấp trước,
thức là phân biệt. Chúng ta dùng những thứ ấy;
nên khởi tâm động niệm đều là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, giả trất,
chẳng thật! Do dùng những thứ ấy, nên mới
có lục đạo luân hồi. Nếu quư vị chẳng
dùng những thứ ấy, lục đạo luân hồi sẽ
chẳng có. Không chỉ lục đạo luân hồi chẳng
có, ngay cả mười pháp giới cũng không có. Không có những
thứ ấy th́ là cảnh giới ǵ? Đó là Nhất Chân pháp giới. Do vậy, mười pháp giới
và lục đạo luân hồi đều là mộng, giống
như nằm mộng, trong mộng có [những h́nh tướng]
th́ là lúc quư vị mê mới có. Khi giác ngộ, tỉnh ngộ,
sẽ chẳng c̣n nữa! Nói cách khác, quư vị dùng vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước th́ có; nếu
buông vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
xuống, không dùng chúng th́ lục đạo và mười
pháp giới chẳng c̣n nữa, [chúng là] giả tướng.
Quư vị đă tỉnh giấc mộng rồi!
Quư
vị có thấu hiểu “b́nh đẳng nhất tướng”
hay chăng? Tôi vừa mới nói điều này, nếu quư
vị chưa thể hiểu th́ tôi nhắc nhở quư vị
một chút, trong mộng bất luận là hưởng lạc
hay chịu khổ, sau khi tỉnh giấc có phải là giống
nhau hay chăng? Lạc chẳng có, mà khổ cũng không có,
chẳng phải là b́nh đẳng nhất tướng ư?
Chúng chẳng phải là thật! Thiên đường, địa
ngục toàn là giả, nhưng quư vị phải hiểu: Quư
vị chưa tỉnh sẽ thật sự hứng chịu!
Quư vị đang nằm mộng th́ thiên đường thật
sự vui, trong địa ngục thật sự khổ, dường
như chẳng giả chút nào! Sau khi tỉnh mới biết
chúng là giả. “Phàm những ǵ
có h́nh tướng đều là hư vọng”; “hết thảy pháp hữu vi, như
mộng, huyễn, bọt, bóng”, quư vị biết những
điều ấy là b́nh đẳng nhất tướng. Nếu
quư vị học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, sẽ rất
dễ liễu giải b́nh đẳng nhất tướng.
Vọng Tận Hoàn Nguyên là nhất tướng. Nay chúng ta liễu
giải, chưa đoạn vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước, vẫn tiếp tục sử dụng
chúng, nhưng chúng ta tin tưởng lời Thích Ca Mâu Ni Phật
là chân thật, chẳng giả. Bài luận văn này do Hiền
Thủ quốc sư dựa theo kinh Hoa Nghiêm soạn ra, cũng
là chân thật, chẳng giả. Nay chúng ta thấy sắc,
nghe tiếng, chúng ta dùng cái tâm b́nh đẳng để
đối đăi, chắc chắn không có sai biệt,
nghĩ đức Phật thường dạy trong kinh Đại
Thừa: “Hết thảy chúng sanh
vốn là Phật”, chúng ta dùng tâm thái này để xử
sự, đăi người, tiếp vật, để sống,
đó chính là cảnh giới Phật. Quư vị có phân biệt,
tôi không phân biệt; quư vị có chấp trước, tôi
không chấp trước; quư vị có khởi tâm động
niệm, tôi chẳng khởi tâm động niệm. Tôi có
thể tùy thuận sự phân biệt, chấp trước
của quư vị, nhưng chính ḿnh chẳng phân biệt, chấp
trước, giống như diễn tuồng! Trên sân khấu,
quư vị phải biểu diễn theo kịch bản. Kịch
bản bắt cười th́ quư vị phải cười,
bắt khóc, quư vị phải khóc, có phải là quư vị thật
sự cười hay khóc chăng? Chẳng hề! Cứ dựa
theo kịch bản để biểu diễn. Phật, Bồ
Tát ở trong nhân gian, quư vị vui vẻ, các Ngài cũng vui
vẻ. Quư vị khổ sở, dường như các Ngài cũng
có tâm đồng cảm, đó là ǵ? Đó là diễn tuồng,
quư vị là thật sự, các Ngài là giả, khác hẳn. Quư
vị thật sự có khổ, có sướng, các Ngài chẳng
khổ mà cũng chẳng sướng. Đây là người
giác ngộ ở cùng chỗ với người chưa giác
ngộ, nhưng khác nhau. Người có cùng cảnh giới
giác ngộ như vị ấy sẽ thấy được,
thấy rất rơ ràng. Nếu chưa đạt tới cảnh
giới ấy, sẽ chẳng thấy được! Phật,
Bồ Tát và chúng sanh ḥa quang đồng trần, nhưng chúng
sanh nh́n không ra, đó gọi là diệu! V́ thế, pháp này gọi
là diệu pháp, đạo lư ở chỗ này! Đấy là b́nh
đẳng nhất tướng.
“Thật Tướng vô tướng,
diệc vô bất tướng, tướng nhi vô tướng,
danh vi Thật Tướng” (Thật Tướng vô tướng,
mà cũng chẳng phải là không có tướng, tướng
mà không có tướng nên gọi là Thật Tướng); đọc
mấy câu này khiến chúng ta hồ đồ! Người
mới học đọc đến sẽ hồ đồ,
nhưng nếu quư vị là người thật sự hiểu
rơ, sẽ biết mấy câu này nói quá hay! Thật Tướng
vô tướng, nó chẳng phải là vật chất, mà cũng
chẳng phải là tinh thần, nhưng nó có thể biến
hiện vật chất và tinh thần, có thể sanh ra hiện
tượng vật chất, có thể sanh ra hiện tượng
tinh thần, có thể hiện ra hiện tượng vật
chất, có thể hiện ra hiện tượng tinh thần,
nên nó là có thể sanh, có thể hiện (năng sanh, năng
hiện). Hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần là toàn thể vũ trụ, trong Phật
pháp chúng được gọi là pháp giới. Hết thảy
hiện tượng trong trọn pháp giới khắp hư
không giới, mười pháp giới lục đạo là “sở
sanh, sở hiện” (cái được sanh, cái được
hiện). Cái có thể sanh, có thể hiện là chân thật,
vĩnh hằng bất biến; sở sanh sở hiện là
giả, giống như nằm mộng, là cảnh giới
trong mộng. Chúng chẳng phải là thật, mà là giả;
nhưng giả và thật lại chẳng tách rời, giả
do đâu mà có? Giả nương vào thật để khởi;
chẳng có Thật, lấy đâu ra Giả? Nương vào
Thật mà khởi. Tuy nương vào Thật mà khởi, nhưng
nó chẳng thật, nó là h́nh bóng của Thật mà thôi. Phải
hiểu rơ chân tướng sự thật này. Sau khi hiểu
rơ, tuy quư vị c̣n chưa giác ngộ hoàn toàn, chưa hoàn
toàn trở về tự tánh, nhưng đối với hết
thảy các pháp trong thế gian này, quư vị có thể buông
xuống, chẳng c̣n chấp trước nữa; đó là quư
vị thật sự giác ngộ. Quư vị coi trọng điều
ǵ? Quư vị coi trọng chuyện nâng cao linh tánh, chẳng
coi trọng tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế
gian này, coi thường những thứ ấy, rất coi
trọng việc nâng cao đức hạnh, trí huệ, linh tánh
của chính ḿnh. Trong ấy có niềm vui chân thật, có lạc
thú không cách nào tưởng tượng được! Do vậy,
các tổ sư đại đức từ xưa thường
dùng một câu nói để h́nh dung: “Thế vị na hữu pháp vị nùng!” (Pháp thế
gian chẳng nồng đậm bằng pháp vị). Con người
hiện thời tham cầu hưởng thụ ngũ dục
lục trần trong thế gian. Quư vị thật sự hưởng
thụ linh tánh th́ ngũ dục, lục trần, tài, sắc,
danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ trong thế gian này
làm sao có thể sánh bằng pháp? Thua kém quá xa! Quư vị đă
nếm pháp vị, sẽ tự nhiên buông ngũ dục lục
trần của thế gian xuống, mới thật sự biết
chúng là ô nhiễm, trong ấy có ǵ để hưởng thụ?
Ô nhiễm ǵ? Ô nhiễm linh tánh! Thật ra, chẳng thể
ô nhiễm linh tánh. Nếu linh tánh thật sự bị ô nhiễm
th́ sẽ chẳng linh, tự tánh bị ô nhiễm sẽ
không gọi là tự tánh, thật sự chẳng bị [ô
nhiễm]. Những phiền năo ấy ô nhiễm thứ ǵ vậy?
Nhiễm bẩn A Lại Da, đó là vọng tâm của quư vị,
khiến cho vọng tâm thêm hư vọng. Nói “hư vọng”
th́ chúng ta khó hiểu, chúng tôi nói là “vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước nặng hơn”, những thứ
này càng sâu thêm hơn mà thôi! Chúng ô nhiễm cái tâm của quư vị,
khiến cho chính ḿnh ngày càng thêm xa cách tâm thanh tịnh và tự
tánh, nó gây chướng ngại trong ấy, chuyện là như
vậy đó!
“Thật Tướng vô tướng”,
như tôi vừa mới nói, đó là Thể. Thật Tướng
là Thể, là tự tánh. Tự tánh có thể sanh, có thể
hiện, “diệc vô bất
tướng”, đó là sở sanh, sở hiện. Thật
Tướng có thể hiện tướng, điều này
rất khó hiểu. Thường là mỗi khi chúng tôi giảng
đến chỗ này, tôi đều dùng máy truyền h́nh làm
tỷ dụ. Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng
là màn h́nh, màn h́nh TV là thật, nó tồn tại. “Vô bất tướng” là ǵ? Vô
bất tướng là những h́nh ảnh hiện ra nơi
màn h́nh. Quư vị thấy chúng ta nhấn nút mở TV, h́nh ảnh
bèn hiện ra, hiện trong màn h́nh. Nếu chúng ta hỏi: Màn
h́nh là Thật Tướng, h́nh ảnh hiện ra là vọng
tướng (tướng hư vọng), tách rời chân
tướng và vọng tướng bằng cách nào? Quư vị
có cách nào tách rời chúng hay chăng? Những h́nh ảnh ấy
rời khỏi màn h́nh sẽ chẳng thể hiện tướng,
tuy chúng hiện trên màn h́nh, nhưng tuyệt đối chẳng
phải là màn h́nh, chẳng có mảy may ǵ liên quan đến
màn h́nh cả! Chân là chân, vọng là vọng. Làm thế nào để
tiêu diệt vọng tướng? Nhấn
nút tắt TV, lập tức chẳng c̣n nữa. Do vậy,
trong chân tướng có thể hiện vô lượng vô biên
sắc tướng. Có nhiều băng tần, quư vị
tùy tiện nhấn một nút nào đó. Nếu quư vị chẳng
nhấn nút, màn h́nh sẽ khôi phục h́nh trạng như cũ,
đó gọi là “vô tướng,
vô bất tướng”. Màn h́nh là vô tướng, [các h́nh ảnh]
trong băng tần là vô bất tướng, đó là thứ
chúng ta đối diện mỗi ngày. Do vậy, xem TV mà có
thể khai ngộ, nếu quư vị có thể coi theo cách như
vậy th́ sẽ có thể khai ngộ, liễu giải điều
ǵ? Chân và vọng chẳng hai, chân chẳng phải là vọng,
vọng chẳng phải là chân, nhưng chân và vọng chẳng
hai! Chân ở đâu? Chân ở trong vọng; vọng ở đâu?
Vọng ở trong chân, tham ngộ điều này sẽ khai
ngộ. Do vậy, đối với TV, nếu quư vị biết
cách xem TV th́ chẳng khác ǵ niệm kinh Hoa Nghiêm! Chẳng khác
ǵ nhau! Quư vị chẳng biết xem, khi xem, sẽ hoàn toàn bị
những động tác trong ấy mê hoặc, bèn hồ
đồ. Nếu quư vị có thể nh́n ra chân và vọng chẳng
hai trong TV, nh́n thấy “phàm những ǵ có tướng đều
là hư vọng”, chẳng phải là quư vị đă đại
triệt đại ngộ rồi ư? Đó là ǵ? TV và
kinh Hoa Nghiêm chẳng khác nhau, mà cũng chẳng khác kinh Vô
Lượng Thọ. Xem TV là học Phật, người biết
coi sẽ là thành Phật, thành Bồ Tát. Kẻ chẳng biết
coi sẽ là tạo nghiệp, trong tâm bị TV xoay chuyển,
nó cười quư vị cũng cười, nó khóc quư vị
cũng khóc. Học những thứ giết, trộm, dâm, dối
trong ấy, sao không đọa địa ngục cho được?
V́ vậy, kinh Phật ở nơi đâu? Không có ǵ chẳng
phải là kinh Phật! Đại Phương Quảng Phật
Hoa Nghiêm ở đâu? Vô Lượng Thọ ở đâu?
Không có ǵ chẳng phải là Vô Lượng Thọ, không có ǵ
chẳng phải là Đại Phương Quảng, chẳng
phải là Phật Hoa Nghiêm. Vấn đề là quư vị có
biết hay là không? Do vậy, kinh do đâu mà có? Kinh từ Thật
Tướng xuất hiện, đức Phật giảng về
Thật Tướng.
Tiếp
đó là nói về vô tướng. “Vô tướng giả, ly nhất thiết hư vọng
chi tướng. Vô tướng tức ly tướng” (vô
tướng là ĺa hết thảy các tướng hư vọng,
vô tướng chính là ly tướng). Có tướng hay không?
Có tướng. V́ sao gọi là vô tướng? Trong tâm không
có tướng. Mắt chúng ta nh́n vào TV, TV có tướng hay
không? Có tướng; nhưng trong tâm chúng ta hiểu rất
rơ ràng, tướng ấy là huyễn tướng, chẳng
thật, là giả. Đối với sắc tướng
hiện trên màn h́nh, quư vị chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước. Quư vị chẳng chấp trước
th́ là tu A La Hán; chẳng phân biệt là tu Bồ Tát hạnh;
không khởi tâm, không động niệm là tu Nhất Thừa
Phật pháp. Quư vị thật sự học hiểu, th́ mỗi
ngày xem TV sẽ tu hành ngay nơi đó, quư vị tu A La Hán, hay
tu Bồ Tát, hay tu Phật. Chẳng biết tu th́ sao? Chẳng
biết tu sẽ tu nhân thiên, tu A Tu La, tu súc sanh, ngạ quỷ,
địa ngục, đều là trong một niệm; thật
đấy, chẳng giả đâu! Quư vị học tập
những thứ giết, trộm, dâm, dối từ TV, đó
là tam ác đạo, quư vị đang học tam ác đạo.
Quư vị coi TV, đây là tốt, là thiện, tự nhủ:
Ta phải học theo. Chẳng tốt th́ ta phải sửa
đổi, hối lỗi, ta có [những điều xấu
ấy] hay chăng? Nếu có lúc ta phạm những lỗi ấy,
ta chớ nên giống như họ, đó chính là [tu nghiệp]
nhân thiên; thứ ǵ cũng chẳng chấp trước là A
La Hán, thứ ǵ cũng chẳng phân biệt là Bồ Tát. Quư
vị thấy đó, cùng xem TV như nhau, nhưng mỗi cá
nhân thành tựu khác nhau. Có người coi TV bèn thành Phật, thành Bồ Tát, có người coi TV bèn
đi vào địa ngục. Do vậy, tổ sư đại
đức trong Tông Môn thường hỏi học tṛ một
câu: “Ngươi có hiểu không?” Câu này có ư nghĩa vô lượng
sâu rộng, quư vị có hiểu ư nghĩa hay chăng? Quư vị
hiểu th́ sẽ thành Phật, thành Bồ Tát; không hiểu
th́ sao? Không hiểu sẽ vào tam đồ! Do vậy, “ĺa hết
thảy các tướng hư vọng” là bảo quư vị
ĺa trong tâm, chẳng phải là bảo quư vị ĺa nơi
sự. Sự chẳng có chướng ngại, Sự Sự
vô ngại, trong tâm không có [chướng ngại]. Vĩnh viễn
giữ ǵn cái tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm giác, đấy
là đạo thành Phật. V́ sao không có Sự? Sự là giả,
là hư vọng, quư vị chẳng cần ĺa nó; coi nó là có
thật, quư vị đă bị lừa, sai mất rồi! Quư
vị biết nó là hư vọng, chỉ cần quư vị chẳng
chấp trước, chẳng phân biệt, không khởi tâm,
không động niệm, chuyện ǵ cũng đều
không có, đó là Như Lai ứng thế. Chư Phật Như
Lai đến thế gian là đến như vậy, các Ngài
ở cùng chúng ta, nhưng quả thật chẳng khởi tâm
động niệm. Trên h́nh thức, các Ngài chẳng khác ǵ chúng
ta, ḥa quang đồng trần với chúng ta. Trên thực tế,
các Ngài chẳng khởi tâm động niệm. Bồ Tát ở
cùng chỗ với chúng ta, tuy có khởi tâm động niệm,
nhưng chẳng phân biệt, chấp trước. Từ
chỗ này, chúng ta hiểu cảnh giới của các Ngài cạn
hay sâu khác nhau.
Câu
kế đó là: “Hựu Thật
Tướng vô bất tướng, phi ngoan không dữ
đoạn diệt, phi như quy mao thố giác, nhất thiết
hư vô” (lại nữa, Thật Tướng chẳng
phải là không có tướng, chẳng phải như
hư không trơ trơ và đoạn diệt, chẳng giống
như lông rùa, sừng thỏ, hết thảy hư vô). Những
điều này đều nhằm chúng ta giải thích vô
tướng, vô tướng là ǵ? Vô tướng là ĺa hết
thảy các tướng hư vọng. Vô tướng là ly
tướng, phải nhớ điều này; chứ chẳng
phải là ĺa khỏi tướng, chẳng có ư nghĩa ấy!
Ngay nơi tướng mà ĺa tướng, tướng ở
ngay trước mặt, biết nó là hư vọng, quư vị
sẽ chẳng chấp trước, đó gọi là “ly tướng”, trọn chẳng
phải là tiêu diệt tướng, [nếu hiểu “ly tướng”
là tiêu diệt tướng] th́ trật mất rồi! Do vậy,
tiếp đó, cụ Hoàng giảng: Thật
Tướng chẳng phải là không có tướng, chẳng
phải là hư không trơ trơ, chẳng phải là
đoạn diệt. Phật pháp nói “vô bất tướng”, nếu quư vị hiểu
lầm [“vô tướng”] là Không, Không là ǵ? Thứ ǵ cũng
đều chẳng có, [hiểu “vô tướng” là như vậy
th́] sai mất rồi! Không có thứ ǵ, giống như chúng
tôi vừa mới nêu tỷ dụ, màn h́nh TV trống không,
thứ ǵ cũng đều chẳng có, nhưng sắc tướng
trong mỗi băng tần là có. Chúng ta coi TV lập tức
phải thấu hiểu Không và Có chẳng hai. Chân Không là ǵ?
Chân Không: Biết tất cả sắc tướng là giả,
tướng hiển hiện trên màn h́nh là giả, nhưng màn
h́nh có ô nhiễm hay không? Chẳng có ô nhiễm, chẳng ô
nhiễm mảy may! V́ sao biết là không ô nhiễm? Tắt
TV chẳng phải là không thấy nữa ư? Chẳng lưu
lại dấu vết ǵ! Sau đấy mở lên, cũng hiểu
rơ nó chẳng lưu lại dấu vết ǵ! Chẳng ô nhiễm
mảy may! Chân tánh chẳng bị ô nhiễm. Dùng màn h́nh để
tượng trưng cho chân tánh của chúng ta, tự tánh của
chúng ta chẳng ô nhiễm! Cái ǵ bị ô nhiễm? A Lại
Da bị ô nhiễm, A Lại Da là hư vọng, ô nhiễm là
ǵ vậy? Trong phim ảnh biểu diễn có thiện, có ác,
có nhân, có quả, đó là ǵ? Đó là hư vọng. Có tịnh,
có uế, trong sự biểu diễn có các thứ đối
lập, toàn là giả, toàn là chẳng thật. Những rắc
rối của chúng ta trong hiện thời là do ngỡ những
thứ hư giả được biểu diễn ấy
toàn là thật, nên bị khổ chịu nạn ở trong ấy.
Trong cảnh giới ấy, dấy lên thất t́nh, ngũ dục,
mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, toàn là giả,
chẳng có ǵ là thật. Do vậy, nhà Phật nói Không, th́ chẳng
phải là thứ ǵ cũng đều chẳng có! Không ở
nơi đâu? Không ở trong Có, Có tức là Không, Không tức
là Có, giống như t́nh h́nh nơi TV mà chúng ta vừa nhắc
đến, Có và Không chẳng hai.
Nói “vạn pháp đều là không”
là nói tới những h́nh ảnh trong băng tần. Nói “tự tánh chẳng Không, Thật
Tướng chẳng không” là nói về màn h́nh TV. Do vậy,
vừa nh́n xem kinh giảng điều ǵ, chúng ta đều
có thể lư giải, nói gộp lại sẽ là “Không, Hữu bất nhị”.
Tâm Kinh nói rất hay: “Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị
Không, Không bất dị Sắc”, lấy Không đại
diện cho tự tánh. Chúng ta dùng TV làm tỷ dụ, Không được
tượng trưng bằng màn h́nh, Có được tượng
trưng bằng các sắc tướng hiển lộ trong
các băng tần. “Sắc tức
thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị
Không, Không bất dị Sắc. “Bất dị” là giống nhau. Sắc là Không, Không
là Sắc. Chớ nên chấp trước Sắc, mà cũng
đừng nên chấp trước Không. Hễ chấp trước
là trật rồi, cũng chớ nên chấp trước nhị
biên th́ quư vị mới thật sự khế nhập cảnh
giới, đó là chân tướng, tức là chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, quư vị thật sự khế
nhập cảnh giới. Chẳng chấp trước bèn
khế nhập. “Nhập” như vậy c̣n cạn, chẳng
sâu, v́ sao? Quư vị chẳng chấp trước, nhưng chắc
là c̣n phân biệt! Nếu chẳng phân biệt, sẽ nhập
càng sâu, đến mức chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm bèn khế nhập viên măn. Viên măn th́ chính là Phật,
thâm nhập là Bồ Tát, thiển nhập (nhập nông cạn)
là A La Hán. Nói theo cách bây giờ, A La Hán, Bồ Tát, Phật là
các danh xưng học vị trong Phật giáo, quư vị khế
nhập Thật Tướng sâu hay cạn khác nhau, nhưng đều
nhập cảnh giới. Phật giống như học vị
Tiến Sĩ, đây học vị tối cao, Bồ Tát là học
vị Thạc Sĩ, A La Hán là học vị Học Sĩ
(Cử Nhân). Thật sự khế nhập th́ gọi là học
Phật; chưa khế nhập tức là ở ngoài Phật
môn, dụng công cách nào, quư vị chẳng lấy được
học vị. Giành được học vị mới được
coi là đệ tử Phật thật sự, là học tṛ
của Thích Ca Mâu Ni Phật. Đạt được học
vị bằng cách nào? Buông xuống là được! Quư vị
chịu buông xuống! Không buông xuống sẽ chẳng được!
V́ sao buông xuống? Do là giả, chẳng thật. Nếu là
thật sẽ chẳng cần phải buông xuống, giả
mà!
Có
phải buông thân thể xuống hay không? Phải buông xuống,
giả đấy, v́ sao? Thân có sanh, lăo, bệnh, tử, chẳng
thể tồn tại vĩnh hằng. Trong Phật pháp nói “chân,
giả” th́ định nghĩa và tiêu chuẩn là: Chân là
vĩnh hằng bất biến, đó là Chân! Chỉ cần
nó có thể biến th́ cũng không phải là Chân. V́ vậy,
động vật có sanh, lăo, bệnh, tử, nên là giả,
thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, nên cũng là
giả, khoáng vật, thậm chí tinh cầu, có thành, trụ,
hoại, không, nên cũng là giả. V́ thế, phàm những ǵ
có h́nh tướng đều chẳng thật! Buổi tối,
chúng ta nh́n lên bầu trời, thấy vô lượng tinh cầu,
vô lượng tinh hệ, đều là thành, trụ, hoại,
không, đều chẳng thật, không có ǵ là thật. Chúng
giống như những tướng được hiển
hiện trên màn h́nh, quư vị đừng nghĩ chúng là thật,
toàn là giả. Những thứ ấy do đâu mà có? Trong giáo
pháp Đại Thừa, đạo lư này được giảng
rất sâu, chúng do ư niệm của chúng ta sanh ra. Tạo Hóa
là ǵ? Tạo Hóa là ư niệm. Quư vị không khởi tâm, không động
niệm th́ trong vũ trụ không có vật chất, mà cũng
không có tinh thần. Ư niệm vừa động, hiện
tượng vật chất và tinh thần đều hiện
ra. Thật vậy! Giống như màn h́nh TV, chúng ta chưa
vặn lên, hay tắt máy đi, thứ ǵ cũng đều
chẳng có; đó Thường Tịch Quang Tịnh Độ
trong nhà Phật. Ư niệm vừa mới động, h́nh tướng
bèn xuất hiện, đó là cơi Thật Báo. Nếu lại phân
biệt th́ là tứ thánh pháp giới; lại c̣n chấp
trước, sẽ là lục đạo luân hồi. Nếu
chúng ta hiểu rất rơ ràng, rất minh bạch những khái
niệm ấy, sẽ sống rất khoái lạc trong thế
gian này, trong Phật pháp nói là “pháp
hỷ sung măn, thường sanh hoan hỷ tâm”. Pháp hỷ
ấy chẳng do bên ngoài kích thích, chẳng phải do quư vị
gặp chuyện ǵ vui vẻ, phát tài, chẳng phải vậy,
chẳng dính dáng đến những thứ ấy! Chẳng
liên quan mảy may, mà từ tự tánh lưu lộ ra. Câu đầu
tiên trong Luận Ngữ là: “Học
nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ” (học
rồi tập luyện, chẳng vui lắm ư), sự hỷ
duyệt ấy là pháp hỷ. Nói theo Phật pháp, quư vị học
tập Phật pháp, đạt được thụ dụng,
thật sự hoan hỷ, sự hỷ duyệt từ nội
tâm lan tỏa ra ngoài, thật sự hoan hỷ, đó gọi
là pháp hỷ. Pháp hỷ sung măn, thường sanh tâm hoan hỷ.
Sự hoan hỷ ấy, chúng ta gọi là sự dưỡng
sinh của con người, là nhân tố quan trọng nhất
trong phép dưỡng sinh. Do vậy, cổ nhân đă nói: “Nhân phùng hỷ sự, tinh thần
sảng” (con người gặp chuyện vui, tinh thần
sảng khoái), suốt ngày từ sáng đến tối vui vẻ,
làm sao thiếu tinh thần cho được! Làm sao người
ấy chẳng khỏe mạnh? Quư vị khế nhập cảnh
giới này sẽ quên mất tuổi tác, quên mất tuổi
tác th́ tuổi thanh xuân tồn tại măi, tuy tuổi tác đă
cao, nhưng chẳng già. Thật đấy, chẳng giả
đâu!
Con người
già đi như thế nào? Đến năm mươi, sáu
mươi tuổi bèn già nua, [là v́] người ấy mỗi
ngày nghĩ đến tuổi già. Vừa nghĩ, sẽ lập
tức già đi. Đặc biệt rơ rệt nhất là ǵ?
Về hưu. Trong quá khứ, nhiều đồng học, bạn
bè của tôi, lúc đang làm việc, giữ chức vị,
họ chẳng nghĩ họ già, làm việc vô cùng hăng hái,
vừa về hưu, già rồi mới về hưu, về
hưu bèn ngay lập tức nghĩ đến tuổi già.
Hai năm chẳng gặp mặt, h́nh như họ đă già
đi cả chục tuổi, cớ sao trở thành nông nỗi
ấy? Già rồi sẽ như thế nào? Họ nghĩ đến
bệnh, chỗ này đau đớn, chỗ kia nhức nhối,
thường vào bệnh viện. Bệnh một thời
gian đă nghĩ tới cái chết, kết quả là chết
thật, họ đều khuất bóng rồi! Rất nhiều
đồng học, bằng hữu đều đă mất,
cớ sao mất nhanh như vậy? Tư tưởng chẳng
đúng, hiểu sai rồi! Những người bạn già
này gặp tôi, [họ bảo] h́nh như tôi không già, v́ sao
không già? Chưa từng nghĩ đến già, mỗi ngày nghĩ
tới kinh bổn, ta phải giải thích cho mọi người
như thế nào? Giảng giải rơ ràng, minh bạch những
thứ trong kinh bổn, chưa hề nghĩ đến già,
tuổi tác mỗi năm một tăng, nhưng thật sự
chẳng già! Bất luận tinh thần hay thể lực dường
như đều giữ nguyên t́nh trạng cũ, năm hai
mươi sáu tuổi học Phật, mỗi năm đều
giữ nguyên t́nh trạng như thuở hai mươi sáu tuổi,
mỗi cá nhân đều có thể làm được như
vậy. Đây là Phật pháp ban cho chúng ta lợi ích chân thật.
Ngày hôm nay thời gian đă hết rồi, chúng ta học tới
chỗ này.
Tập 18
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem kinh bổn Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Kinh Giải, trang mười bảy, hàng thứ sáu,
xem từ hai chữ cuối cùng.
“Vô tướng giả, ly nhất
thiết hư vọng chi tướng. Vô tướng tức
ly tướng” (Vô tướng là ĺa hết thảy các tướng
hư vọng, vô tướng chính là ĺa tướng). Mấy
câu này, nói thật ra, cụ Hoàng đă giảng rất rơ
ràng, chúng ta phải chú tâm đọc. Kinh dạy: “Thật Tướng vô tướng”,
vô tướng là ǵ? Vô tướng là ĺa hết thảy các
tướng hư vọng. Do vậy, vô tướng và ly
tướng có cùng một ư nghĩa, ly tướng là vô
tướng. Hết thảy các tướng hư vọng là
ǵ? Kinh Phật đă vô số lần dạy chúng ta: “Phàm những ǵ có tướng đều
là hư vọng”. V́ sao? Do hết thảy các hiện
tượng đều là pháp sanh bởi nhân duyên, Trung Luận
nói rất hay: “Nhân duyên sở sanh
pháp, ngă thuyết tức thị không” (Pháp sanh bởi nhân
duyên, ta nói nó là Không), “ngă” ở
đây là đức Phật nói, trích dẫn lời Phật
dạy. “Ly” là ĺa như thế
nào? Ĺa chấp trước, chẳng chấp trước sẽ
ĺa. Chấp trước là chẳng ĺa! Chớ nên chấp
trước chúng (hết thảy các tướng), đừng
nên phân biệt chúng. Đối với tất cả hết
thảy các hiện tượng, chớ nên khởi tâm động
niệm, quư vị sẽ ĺa toàn bộ. V́ thế, không khởi
tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, người ấy thành Phật, v́ sao?
Đă ĺa sạch sành sanh! Tướng có tồn tại hay
chăng? Tướng tồn tại, tướng là huyễn
tướng, tướng là pháp sanh diệt. Thật Tướng
là chẳng sanh, chẳng diệt, Thật Tướng là nói
theo Thể, c̣n tướng hư huyễn là nói theo hiện
tướng (tướng được biến hiện),
lớn th́ như hư không, pháp giới; trọn khắp
pháp giới hư không giới đều là một huyễn
tướng.
Chúng
ta đă học Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, quư vị
cũng rất dễ hiểu [những điều này]. Chân
là ǵ? Chân là Thể, nhất thể. Thể là một, tự
tánh thanh tịnh viên minh thể, đó là Chân. V́ sao là Chân? Huệ
Năng đại sư lúc khai ngộ đă nói rất hay:
Thể ấy “vốn tự
thanh tịnh”, chưa hề bị ô nhiễm; nay có bị
ô nhiễm hay không? Chẳng bị ô nhiễm, vĩnh viễn
chẳng ô nhiễm, chẳng sanh, chẳng diệt. “Vốn tự trọn đủ”,
câu này rất trọng yếu, trong Tịnh Tông gọi tự tánh thanh tịnh viên minh thể là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ, trong ấy, không có hiện
tượng vật chất, mà cũng không có hiện tượng
tinh thần, nhưng chẳng thể nói nó là không, v́ sao? Vốn
tự đầy đủ, thứ ǵ nó cũng chẳng thiếu,
nhưng nó chẳng hiện tiền. Câu nói thứ tư của
Huệ Năng đại sư là: “Vốn chẳng lay động”; nói cách khác, nó là định.
Sáng hôm qua, đài truyền h́nh đến phỏng vấn
tôi, họ có nói một câu: “Con người hiện thời
thường nói ‘nhân định thắng thiên’, phải khai
thác, phát triển thiên nhiên”. Nhân định thắng thiên, nói
không sai, nhưng hiểu sai ư nghĩa rồi! Nhân định
thắng thiên nên giảng như thế nào? Chính là câu thứ
tư của Huệ Năng đại sư: “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng
lay động”, đó là tự tánh vốn định. Nếu
quư vị chứng đắc điều ấy, sẽ “thắng
thiên”, thật đấy, chẳng giả tí nào! Chứ chẳng
phải là nói con người chúng ta thông minh, trí huệ th́ khoa
học, kỹ thuật nhất định sẽ có thể
chiến thắng thiên nhiên. Đừng nói thiên nhiên, ngay cả
địa cầu c̣n chưa chiến thắng được!
Địa cầu vừa chấn động đă chịu
không nổi, làm sao quư vị có thể thắng nó? Một đại
đô thị có mấy ngàn vạn người sống trong
ấy, một trận động đất lớn là xong,
mọi người đều biết chuyện này! Chưa
thắng được trời! Nhưng tự tánh vốn
định, nếu quư vị chứng đắc th́ sẽ
có thể thắng.
Câu
cuối cùng: “Nào ngờ tự tánh,
có thể sanh ra vạn pháp”. Câu “có thể sanh ra vạn pháp” và câu “vốn tự trọn đủ” trong phần trước
là hai mặt thuận và nghịch. “Vốn tự trọn đủ” là ẩn, Phật
pháp gọi đó là ẩn; “có
thể sanh ra vạn pháp” là hiển, tức hiện hành.
Tự tánh thanh tịnh viên minh thể giống như cái TV
nay đang ở trước mặt chúng ta. Thể là ǵ? Thể
là màn h́nh TV, cái ǵ cũng đều không có. Nó cái ǵ cũng đều
không có, nhưng quư vị chẳng thể nói nó là không, v́ sao?
Nhấn nút một cái, h́nh ảnh sẽ xuất hiện. H́nh
ảnh xuất hiện, chẳng thể nói là nó có. Quư vị
biết chân và vọng, màn h́nh là chân, h́nh ảnh là vọng,
chân và vọng là nhất thể, vọng há có thể rời
khỏi chân ư? Chẳng có cách ǵ rời khỏi, rời
khỏi màn h́nh, các h́nh ảnh sẽ chẳng thể hiện
ra được! Có chân nào chẳng ở trong vọng? Trong
màn h́nh này, mỗi tấc vuông đều có h́nh ảnh, nhưng
chân là chân, vọng là vọng, chân chẳng phải là vọng,
vọng chẳng phải là chân, đúng hay không? Nói cách khác, chân
là vọng, vọng là chân, chân và vọng là một, chẳng
hai, đúng hay không? Cũng đúng! Quư vị hiểu rơ điều
này! Do vậy, đức Phật đă nói: “Thật Tướng ly tướng”. Thật
Tướng ly tướng tức là Thật Tướng vô
tướng, Thật Tướng vô bất tướng, chúng
là cùng một chuyện. Do vậy, xem TV mà biết xem th́ sẽ
là cảnh giới Hoa Nghiêm! Khi biết xem, có thể ngộ
nhập tự tánh thanh tịnh viên minh thể, đấy là
thành Phật; nhưng vấn đề là quư vị có hiểu
hay không! V́ sao chúng ta không hiểu? Do lúc quư vị đang xem,
bèn khởi tâm động niệm, có phân biệt, có chấp
trước, cho nên quư vị chấp tướng. Do quư vị
chấp tướng, nên chẳng phải là ly tướng,
mà là chấp tướng. Chấp tướng là lục
đạo phàm phu, trong Phật pháp nói “ly tướng là A La
Hán”, chẳng phải là phàm phu! Người đạt được
ly tướng sẽ chẳng c̣n chấp trước hết
thảy các hiện tượng; tâm b́nh đẳng, sẽ
vượt thoát lục đạo luân hồi, chứng quả
A La Hán. Chẳng phân biệt, quư vị là Bồ Tát. Không khởi
tâm, không động niệm, quư vị sẽ thành Phật. Ở
đây, điều trọng yếu nhất là dạy chúng
ta: Sau khi liễu giải chân tướng sự thật, đừng
chấp trước nữa, phải thực hiện từ
chỗ này!
Lục
đạo xuất hiện như thế nào? Có thể sanh
vạn pháp, lục đạo từ đâu mà có? Lục
đạo từ chấp trước mà có. Tứ thánh pháp
giới do đâu mà có? Phía trên của mười pháp giới
là tứ thánh pháp giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ
Tát, Phật, do đâu mà có? Từ phân biệt mà có. Thật
sự chẳng khởi tâm, chẳng động niệm th́
mười pháp giới cũng không có, mười pháp giới
bèn ẩn, chẳng hiển lộ nữa! Nhưng tập
khí vô minh từ vô thỉ chưa đoạn, chẳng có cách
nào buông tập khí xuống; do c̣n chưa buông xuống, cho nên
c̣n có một cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Cơi Thật Báo Trang
Nghiêm do đâu mà có? Bốn mươi mốt phẩm tập
khí vô minh, tập khí trong ấy có dày hay mỏng khác nhau; v́
thế, đức Phật chia thành bốn mươi mốt
đẳng cấp. Tuy có bốn mươi mốt đẳng
cấp, nhưng chẳng trở ngại quư vị mảy
may! V́ sao? Quư vị đă không khởi tâm, không động
niệm, chẳng cần phải quan tâm tới cái vô minh ấy,
lâu ngày, nó sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa! Phải mất
thời gian bao lâu? Kinh nói là ba A-tăng-kỳ kiếp, [tập
khí phiền năo] sẽ tự nhiên chẳng c̣n nữa. Sau khi
không c̣n, đó là cơi Thật Báo Trang Nghiêm viên măn hiện tiền,
trở về tự tánh, chứng đắc Phật quả
rốt ráo, chuyện là như vậy đó! Nói chung, phải
hiểu rơ, minh bạch. Sau khi minh bạch, quư vị mới
chịu buông xuống. Nguyên nhân khiến không chịu buông xuống
là do chưa hiểu rơ chân tướng sự thật, nên mới
có phân biệt, chấp trước. Đây là một chướng
ngại rất lớn.
Nếu
chẳng thật sự buông xuống, cả đời này,
quư vị sẽ làm ǵ? Phật học, chẳng phải là học
Phật. Người Phật học rất nhiều, người
thật sự học Phật chẳng mấy! Học Phật
là ǵ? Học Phật là buông xuống. Lúc tôi mới học, Chương
Gia đại sư dạy tôi: “Thấy
thấu suốt, buông xuống”, bắt đầu làm từ
đâu? Thực hiện từ buông xuống. Quư vị có buông
xuống được th́ mới thật sự có thể
thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt lại giúp
quư vị buông xuống một tầng nữa. Từ Sơ
Phát Tâm đến địa vị Như Lai là “thấy thấu
suốt bèn buông xuống, buông xuống bèn thấy thấu
suốt”; hai phương pháp này giúp đỡ lẫn nhau thành
tựu từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như
Lai. Đến cuối cùng, buông luôn tập khí vô minh xuống,
quư vị bèn thành Phật. Đó gọi là học Phật. Nếu
chẳng phải dùng phương pháp thấy thấu suốt
và buông xuống này, quư vị là Phật học. Phật học
và học Phật là hai chuyện [khác hẳn nhau]! Phật học
chẳng thể liễu sanh tử, không thể thoát khỏi
tam giới; ngay cả niệm Phật văng sanh vẫn phải
buông xuống. Hễ có mảy may lưu luyến thế giới
này, sẽ không bỏ xuống được, chẳng thể
văng sanh! Chẳng có thứ ǵ trên thế gian này có thể
mang qua thế giới Cực Lạc được! Do vậy,
thật sự cầu văng sanh th́ hết thảy mọi thứ
ở nơi đây, thường nói là “thân, tâm, thế giới
hết thảy đều buông xuống” th́ mới có thể
ra đi được!
Khó
buông xuống nhất là thân t́nh, thứ này khó lắm! Phải
thật sự thực hiện, thật sự mong liễu
sanh tử, thoát tam giới trong một đời này th́ phải
bắt đầu từ đâu? Trước hết, phải
nhạt bớt thân t́nh, “nhạt bớt” chẳng phải là
bất hiếu với cha mẹ! [Nếu bất hiếu]
th́ quư vị đă phạm lỗi mất rồi! Quư vị
phải thật sự thực hiện Đệ Tử
Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, tuy thi
hành nhưng lại chẳng chấp trước, tâm địa
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Bên ngoài thực
hiện vô cùng chu đáo, đó là ǵ? Bên ngoài thực hiện
vô cùng chu đáo nhằm phổ độ chúng sanh, nêu gương
tốt nhất cho người thế gian. Bên trong thanh tịnh,
chẳng nhiễm mảy trần, đấy là nâng cao linh tánh
của chính quư vị, mỗi ngày đều tương ứng
với thế giới Cực Lạc, tương ứng với
A Di Đà Phật. Quư vị thấy pháp xuất thế gian
và pháp thế gian có cùng một Thể, ta xử sự đăi
người tiếp vật, sinh sống, làm lụng chẳng
khác ǵ kẻ khác, nhưng đối với
người thế gian mà nói th́ khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác, hoàn toàn tùy thuận Pháp Tánh, điều
này trọng yếu! Luân lư, đạo đức đều
do Tánh Đức tự nhiên lưu lộ. Nếu quư vị
chấp tướng, chấp tướng sẽ phải tu
thiện. Đoạn ác, tu thiện! Chẳng chấp tướng
sẽ thành Phật, thành Bồ Tát. Tuy chẳng chấp
tướng, nhưng trọn chẳng ĺa tướng. Mọi
người mỗi ngày đều xem TV, hăy nghĩ tới
tỷ dụ của tôi, đối với màn huỳnh quang
và sắc tướng hiện trong ấy, quư vị thường
nghĩ đến điều ấy, chúng có ĺa hay không? Chẳng
ĺa, chẳng tức. Màn h́nh là thật, vĩnh viễn chẳng
đổi; nhưng tướng cảnh giới trong ấy,
tức là tướng được hiện ra sẽ biến
đổi trong từng sát-na, chẳng ngưng dứt. Tốc
độ biến đổi nhanh như thế nào? Mọi
người đều có kiến thức thông thường
này, chúng ta h́nh dung nó [biến đổi trong] từng sát-na,
chẳng phải là từng giây một! Nó biến hóa trong từng
một phần trăm giây, một phần ngàn giây, một
phần vạn giây.
Nhưng
vũ trụ là tướng được hiện giống
như h́nh ảnh hiện ra trên màn h́nh, tốc độ
nhanh như thế nào? Di Lặc Bồ Tát cho chúng ta biết
trong một giây biến hóa bao nhiêu lần? Một ngàn hai
trăm tám mươi triệu lần. Nguyên văn trong kinh
điển là: Trong một cái khảy ngón tay, có ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm. Trong một cái khảy
ngón tay có bao nhiêu? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm.
Trăm ngàn là mười vạn, ba mươi hai ức nhân
với mười vạn là ba trăm hai mươi triệu,
trong một khảy ngón tay có ba trăm hai mươi triệu.
Chúng ta khảy ngón tay [th́ trong một giây] có thể khảy
bốn lần, tôi tin có người c̣n khảy ngón tay nhanh
hơn tôi. Khảy tới năm lần, sẽ là một ngàn
sáu trăm triệu, trong một giây, chứ không phải là
một phần vạn hay một phần mười vạn
giây, chẳng phải! Biến hóa ở trong ấy, cứ một
niệm là một tướng được hiện; niệm
trước vừa diệt, niệm sau lại sanh. Do vậy,
chúng ta thấy những hiện tượng này, sự thật
là ǵ? Là “tương tự tương tục tướng”
(tướng gần như liên tục), chúng chẳng phải
là thật sự liên tục, mà là tương tự liên tục.
Chúng biến hóa, nghe theo ai chỉ huy? Trong kinh, đức Phật
đă dạy: “Hết thảy các
pháp sanh từ tâm tưởng”, tâm tưởng chỉ
huy chúng (các hiện tượng ấy). Tâm tưởng thiện
th́ các tướng được hiện sẽ là lành. Tâm
tưởng ác, tướng được hiện là ác. Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng! Chúng ta mong bản
thân tướng mạo đẹp đẽ, thân thể khỏe
mạnh, quư vị nghĩ đến điều lành cho nhiều
bèn đạt được! Bởi lẽ, tâm thái quyết
định tướng mạo và sức khỏe của chúng
ta. Tâm thái, chứ chẳng phải thứ ǵ khác!
Hoàn
cảnh sống của chúng ta tốt hay xấu cũng tùy
thuộc vào tâm thái. Nếu mỗi cá nhân trong các cư dân trên
địa cầu đều nghĩ tới Thập Thiện
Nghiệp Đạo, địa cầu này sẽ chẳng
khác ǵ thế giới Cực Lạc. V́ sao? Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói v́ sao Tây Phương Cực Lạc thế giới
tốt đẹp như vậy? Toàn là những người
thượng thiện nhóm họp một chỗ, cư dân bên
đó nghĩ tưởng những điều thượng
thiện, nói những lời thượng thiện, làm những
chuyện thượng thiện, nguyên nhân là như vậy
đó! Hiện thời, địa cầu của chúng ta rắc
rối quá, hiện nay chẳng nói đến tai nạn
cũng không được, tai nạn nhiều quá! Hôm qua, đài
Phượng Hoàng phỏng tôi với chủ đề là “tai
nạn”, trước nay chưa hề thảo luận vấn
đề này. Tôi cũng bảo họ, năm nay trong cuộc
phỏng vấn năm tôn giáo tại Úc, trong quá khứ, khi
gặp gỡ giữa các tôn giáo, chúng tôi cũng chưa hề
bàn đến tai nạn. Khi tham dự phỏng vấn lần
này, mọi người lấy tai nạn làm chủ đề
hội thảo, có thể thấy rất nhiều người
đă khá coi trọng vấn đề này. Tai nạn do đâu
xảy ra? Đức Phật đă dạy: Trước hết
là do cái tâm của quư vị. Tâm quư vị xấu xa, trong tâm
có tham, sân, si, mạn, nghi, chúng được gọi là Ngũ
Độc. Quư vị thấy trong tâm của chính ḿnh có Ngũ
Độc. Cảnh giới vừa hiện tiền, nhất
định sẽ khiến quư vị phản ứng, từ
Ngũ Độc nẩy sanh phản ứng ǵ? Oán hận, áo
năo, giận dữ, phiền muộn, thôi rồi, thân thể
quư vị sẽ đổ bệnh, ngă bệnh, quư vị bệnh
là do vậy. Chúng ta thường gọi chất độc
bên trong là “tam độc phiền năo”, tức là tham, sân, si, c̣n
thêm vào hai thứ nữa, thành tham, sân, si, mạn, nghi Ngũ
Độc. Năm thứ này kết hợp với năm
duyên “oán, hận, năo, nộ, phiền”, tế bào của chúng
ta lập tức biến thành tế bào bị bệnh, nó biến
hóa, thay đổi, đó là nguyên nhân khiến quư vị nhiễm
bệnh. Phải như thế nào mới không bị bệnh?
Đức Phật đă dạy chúng ta một câu, quư vị
thật sự ghi nhớ, thật sự thực hiện th́
bách bệnh chẳng sanh. Đức Phật dạy quư vị
điều ǵ vậy? “Siêng tu Giới,
Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si”, hóa giải
virus gây bệnh từ trong tâm ḿnh, sẽ vĩnh viễn chẳng
sanh bệnh. Bởi lẽ, tâm thái quyết định hết
thảy, đạo lư này tương thông với y học Trung
Quốc. Y học Trung Quốc bảo: Chữa bệnh th́ tác
dụng trị liệu của thuốc men tối đa chỉ
chiếm ba phần, bảy phần là tâm thái. Hễ tâm thái
chuyển biến, có lúc căn bản là không cần tới
thuốc thang, tự nhiên lành bệnh, điều này chẳng
có ǵ hiếm lạ, mà có căn cứ lư luận, ai nấy đều
làm được. V́ thế, tâm con người phải tốt
đẹp!
Tổ
tiên Trung Quốc dạy con người, tôi nghĩ tổ
tiên Trung Quốc đều là chư Phật, Bồ Tát tái
lai, chẳng phải là phàm nhân. Thuở tôi c̣n trẻ, học
Phật, thỉnh ư thầy Lư: “Cổ thánh tiên hiền của
Trung Quốc như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn Vương,
Vơ Vương, Châu Công, Khổng Tử, Mạnh Tử có phải
là Phật, Bồ Tát tái lai, hóa thân tại Trung Quốc hay chăng?
Họ nên dùng tư cách thánh hiền để độ người,
bèn hiện thân thánh hiền để nói pháp”. Tôi thỉnh ư
thầy, thầy đáp: “Nói theo Lư th́ hợp lẽ, nhưng
trên mặt Sự chẳng có chứng cứ”. Cụ nói hay
quá! Các Ngài lại chẳng bộc lộ thân phận, chẳng
nói ḿnh là Bồ Tát nào tái lai, chẳng hề nói! Nói theo Lư th́
thông suốt, v́ trong giáo pháp Đại Thừa thường
nói “nên dùng thân ǵ để
độ được, bèn hiện thân ấy”, chúng ta
phải hiểu điều này! Thật sự hiểu rơ,
minh bạch, quư vị sẽ thật sự làm, đoạn
hết thảy ác, buông hết thảy ác xuống, tu hết
thảy thiện. Tu hết thảy thiện, đừng chấp
tướng; chẳng chấp tướng th́ sẽ khai ngộ,
sẽ kiến tánh, sẽ đắc định, đắc
tam-muội, sẽ khai ngộ, sẽ chứng quả. Chấp
tướng th́ sao? Chấp tướng th́ là thiện pháp
nhân thiên, quả báo ở trong nhân thiên, chẳng thoát khỏi
lục đạo luân hồi. Đoạn ác nhưng chẳng
chấp vào tướng đoạn ác, tu thiện nhưng
chẳng chấp tướng tu thiện, ly tướng, ĺa
hết thảy các tướng hư vọng, làm như vậy
là đúng, đó là thật sự học Phật. Chúng ta lại xem câu kế tiếp:
“Hựu Thật Tướng vô
bất tướng, phi ngoan không dữ đoạn diệt”
(Lại nữa, Thật Tướng chẳng phải là không
có tướng, chẳng phải là hư không trơ trơ
và đoạn diệt). Chúng ta vẫn lấy màn h́nh TV làm tỷ
dụ, Thật Tướng là ǵ? Thật Tướng giống
như màn h́nh TV, đó là Thật Tướng. Thật
Tướng vô bất tướng, “vô bất tướng”
là có tướng, đúng vậy! Ta vừa mở máy liền
có tướng, chẳng phải là vô tướng, mà là có tướng;
tuy có tướng, nó vẫn là Thật Tướng. Tôi vừa
mới nói rất rơ ràng, Thật Tướng và vọng tướng
dung hợp lại, tuy là hai chuyện, nhưng chẳng thể
phân biệt! Quư vị chẳng thể phân biệt cái nào là
vọng tướng, cái nào là Thật Tướng, không thể
phân biệt! Vọng tướng là Thật Tướng, Thật
Tướng là vọng tướng; nhưng Thật Tướng
và vọng tướng đúng là khác nhau. Chúng ở cùng một
chỗ, vĩnh viễn chẳng tách rời, cũng có thể
nói là tất cả hiện tượng vật chất và hiện
tượng tinh thần trong khắp pháp giới hư không
giới đều do Thật Tướng biến hiện,
toàn là tự tánh. Chân Như tự tánh ở
đâu? Không có một pháp nào chẳng phải [là Chân Như
tự tánh]. Ta lấy cái này, nó có phải là Chân Như tự
tánh hay không? Phải! Lẽ nào chẳng phải? Thứ nào
cũng đều phải, bản thể của chúng là
Chân Như tự tánh. Tùy tiện lấy một pháp nào,
cũng đều là Chân Như tự tánh. Người kiến
tánh và kẻ chưa kiến tánh có ǵ khác nhau? Khác nhau ở
chỗ kẻ chưa kiến tánh chấp trước, phân
biệt; người kiến tánh chẳng chấp trước,
chẳng phân biệt. Kẻ chưa kiến tánh tâm lượng
rất nhỏ, thứ ǵ cũng đều so đo. Người
kiến tánh tâm lượng to như hư không pháp giới,
tâm bao thái hư, lượng trọn khắp các cơi nước
nhiều như cát, người ấy chẳng so đo, chẳng
chấp trước. Khác hẳn! Người kiến tánh pháp
hỷ sung măn, sung sướng; kẻ chưa kiến tánh
phiền năo trùng trùng, cuộc sống rất khổ, làm sao
giống nhau cho được? Người kiến tánh thấy
thấu suốt, người chưa kiến tánh chẳng thấy
thấu suốt. Do vậy, Thật Tướng chẳng phải
là ngoan không, ngoan không là ǵ? Là nói tới hư không, cái ǵ cũng
đều không có. Màn h́nh này chẳng phải là cái ǵ cũng
đều không có, nó có, mở máy lên sẽ có thể hiện
tướng. Cũng không phải là đoạn diệt,
đoạn diệt là ǵ? Là trừ bỏ tướng này, đó
là đoạn diệt! Có thể đoạn diệt hay không?
Chẳng đoạn diệt được! Chẳng trừ
khử được!
Do vậy,
“phi như quy mao, thố giác”
(chẳng giống như lông rùa, sừng thỏ), rùa không có
lông, thỏ chẳng có sừng, đó là ǵ? Đây là một
tỷ dụ về ngoan không, đoạn diệt, [Thật
Tướng có] ư nghĩa khác hẳn những thứ này. “Nhất thiết hư vô” (hết
thảy hư vô), nó chẳng phải là hết thảy đều
hư vô, mà là thật sự có, nhưng “thật sự có” là
có tướng, nhưng tướng ấy chắc chắn
là giả tướng, chẳng thật! Đây là từ một
Thể phát khởi hai tác dụng, hai tác dụng bèn hiện
tướng, đó là giả tướng. Hai tác dụng th́
thứ nhất là y báo, tức là vũ trụ, trọn khắp
pháp giới hư không giới. Chúng ta đọc phẩm
Hoa Tạng Thế Giới và Thế Giới Thành Tựu của
kinh Hoa Nghiêm, quư vị thấy những điều được
giảng trong hai phẩm ấy chính là vũ trụ quan của
Đại Thừa Phật pháp, giảng cặn kẽ hơn
triết học hiện tại. [Vũ trụ quan theo cách
diễn giải của] các khoa học gia và triết gia hiện
thời đều thua kém thế giới Hoa Tạng quá xa!
[Vũ trụ quan theo] kinh Hoa Nghiêm là trùng trùng vô tận, khoa
học lẫn triết học vẫn chưa nói tới điều
này. Những điều kinh Phật giảng là sự thật
ư? Thật đấy, chẳng sai chạy chút nào! Trong vi
trần có thế giới, thế giới ấy giống hệt
như vũ trụ của chúng ta, chẳng sai khác! Trong vi
trần có thế giới, trong thế giới đó lại
có vi trần, trong vi trần lại có thế giới, trùng
trùng vô tận! Do vậy, nói: “Kỳ
đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội” (cái lớn
không ra ngoài, cái nhỏ không ở trong), thật đấy!
V́ tự tánh là viên măn, không có lớn nhỏ, chẳng có trước
sau. Không có trước sau là không có thời gian; không có lớn
nhỏ là chẳng có không gian. Thời gian và không gian cũng
chẳng tồn tại, đấy là thuộc về Thường
Tịch Quang. Thường Tịch Quang ở đâu? Trọn
khắp hết thảy các nơi, không lúc nào, không chỗ nào
nó chẳng tồn tại, v́ nó có thể biến, [tức là]
có thể sanh, có thể biến (năng sanh, năng biến);
vũ trụ vạn vật là sở sanh sở biến (cái
được sanh ra, cái được biến ra). Năng
và Sở là một, chẳng hai!
V́
thế, xưa kia tiên sinh Âu Dương Cánh Vô đă nói: “Phật pháp chẳng phải là
triết học”. Ông ta nói cũng rất có lư, v́ sao? Trong
triết học có Năng và Sở (chủ thể và khách thể),
tuy Phật pháp nói đến Năng và Sở, nhưng Năng
và Sở là một, chẳng hai, Năng Sở bất nhị.
Trong triết học chẳng có cách nói này! Do vậy, ông ta nói:
“Phật pháp chẳng phải
là triết học, cũng chẳng phải là tôn giáo, mà là
thứ cần thiết cho đời hiện tại”.
Thế giới hiện thời chẳng thể thiếu Phật
giáo, quả thật Phật giáo có thể giúp chúng ta giải
quyết vấn đề xă hội, dùng Đại Thừa
Phật pháp để giải quyết vấn đề xă
hội hiện thời. Do hiện thời xă hội loạn
lạc, trên địa cầu tai nạn rất nhiều, thật
sự dùng Đại Thừa Phật pháp, dùng kinh Vô Lượng
Thọ, dùng kinh Hoa Nghiêm để giải quyết vấn
đề hiện tại, cần bao lâu? Chưa đầy
một năm, xă hội an định, tai nạn chẳng
c̣n nữa! Thật đấy, chẳng giả đâu! Quư vị
không tin th́ chẳng có cách nào hết, chẳng tin tưởng
mà! Cổ nhân Trung Quốc có nói một câu: “Bất thính lăo nhân ngôn, ngật khuy tại nhăn tiền”
(Chẳng nghe lời người già, bị thua thiệt
ngay trước mắt). Quư vị phải hứng chịu
những sự hỗn loạn trước mắt, tất
cả những tai biến trên địa cầu quư vị
cũng phải hứng chịu v́ quư vị không nghe lời
người già. Người già là ai vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật
là người già, Khổng Tử, Mạnh
Tử là người già, Gia Tô (Jesus), Mục Hăn Mặc Đức
(Mohamed) đều là người già, quư vị chẳng nghe
lời các vị ấy, sẽ chịu thiệt tḥi to lớn.
Tiếp
đó, Hoàng lăo cư sĩ dẫn một câu trong kinh Kim Cang
để nói: “Kim Cang kinh vân: -
Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức
kiến Như Lai” (kinh Kim Cang nói: “Phàm những ǵ có h́nh tướng đều là hư
vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải là
tướng th́ chính là thấy Như Lai”). Như Lai là tự
tánh viên minh thể, quư vị có thể thấy “chư tướng phi tướng”
sẽ kiến tánh, “tức kiến
Như Lai” là “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”.
Quư vị có thể thấy “chư
tướng phi tướng” th́ hết thảy các hiện
tượng là ǵ? Tôi vừa mới nói, chúng sanh diệt
trong từng sát-na, là tương tự tương tục
tướng, không có ǵ là thật, kể cả thân thể của
chúng ta, [vậy th́] quư vị có c̣n chấp trước nữa
chăng? Quư vị có c̣n dấy lên ư niệm muốn khống
chế, muốn chiếm hữu hay chăng? V́ sao sẽ
không khởi lên những ư niệm này? V́ chúng là Không. “Đương thể tức không,
liễu bất khả đắc” (bản thể là không,
trọn chẳng thể được). Thuở trẻ, tôi
có xem bộ kinh Đại Bát Nhă sáu trăm quyển một
lần, tôi tổng kết được mười hai chữ,
những điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng
trong hai mươi hai năm là ǵ? Ngài dạy chúng ta: “Nhất thiết pháp, vô sở hữu,
tất cánh không, bất khả đắc” (hết thảy
các pháp vô sở hữu, rốt ráo không, chẳng thể
được). Quư vị thật sự hiểu [mười
hai chữ ấy] sẽ không chỉ chẳng khởi lên ư
niệm khống chế, chiếm hữu hết thảy cảnh
giới bên ngoài, mà đối với thân tâm của chính ḿnh
cũng chẳng có ư niệm ấy. Thân, tâm, thế giới
đều là huyễn tướng, đều là phi tướng.
Vạn pháp đều là Không, thưa quư vị, nói đến
cuối cùng, thật sự minh tâm kiến tánh th́ nhân quả
cũng là không.
Nhưng
trong Phật pháp nói: “Vạn
pháp giai không, nhân quả bất không” (vạn pháp đều
là không, nhân quả chẳng không) là nói với ai? Nói với
kẻ chưa kiến tánh. Chỉ cần quư vị chưa kiến
tánh, sẽ có nhân, có quả; kiến tánh rồi bèn không có.
Kiến tánh là ǵ? [Kiến tánh là] quư vị đă thấy Như
Lai; “thấy Như Lai” là ǵ? Quư vị thành Như Lai!
Cũng là như trong Hoa Nghiêm thường giảng, những
ǵ có nhân quả? Mười pháp giới chẳng ĺa nhân quả;
Phật trong mười pháp giới vẫn chẳng ĺa nhân
quả, v́ sao? Ngài chưa thể chuyển thức thành trí. Khi
nào Ngài tiến cao hơn, chuyển tám thức thành bốn
trí, sẽ chẳng c̣n nhân quả. Thật ra, chúng ta nói tới
nhân quả báo ứng th́ chỉ thuộc trong mười
pháp giới; Phật pháp giới trong mười pháp giới
hễ tiến cao hơn sẽ chẳng c̣n [nhân quả] nữa!
Tiến cao hơn chính là cơi Thật Báo Trang Nghiêm của chư
Phật Như Lai. Nếu chúng ta hỏi: Trong cơi Thật Báo
Trang Nghiêm c̣n có nhân quả hay không? Có! V́ sao mà có? Do tập
khí vô minh từ vô thỉ chưa đoạn cho nên người
trong cơi ấy (Thật Báo Trang Nghiêm) có [nhân quả]. Họ
c̣n có bốn mươi mốt phẩm vô minh, “vô minh” ấy
chính là tập khí vô minh! Nói rành rẽ sẽ là bốn
mươi mốt phẩm tập khí vô minh. Vô minh đă đoạn
rồi, v́ nếu chưa đoạn vô minh, sẽ không thoát
khỏi mười pháp giới; do vô minh đă đoạn,
mười pháp giới chẳng c̣n nữa, nhưng tập
khí vô minh vẫn c̣n. Do vậy, c̣n có cơi Thật Báo Trang Nghiêm.
Sau khi đoạn được tập khí, cơi Thật Báo
chẳng c̣n, hoàn toàn trở về tự tánh. Trở về
tự tánh th́ nhân quả chẳng c̣n nữa, thật sự
chẳng có!
Do vậy, chúng ta
hiểu vạn vật: Đối với cái có thể sanh
ra vạn vật th́ cái nhân có thể sanh [vạn vật] chính
là “một niệm bất giác”, đó là nhân. Ư niệm ấy
dấy lên, dao động vô cùng vi tế, chúng ta chẳng có
cách ǵ nhận biết được! Không riêng ḿnh chúng ta chẳng
có cách nào nhận biết, mà kinh c̣n nói: Thất Địa Bồ
Tát cũng chẳng cảm nhận được, từ Bát
Địa trở lên mới có thể cảm nhận. Bậc
Bát Địa trong Viên Giáo nhận biết. Bát Địa, Cửu
Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác,
năm địa vị này đều biết. Do vậy,
[một niệm bất giác ấy] gọi là vô thỉ vô
minh. Hai chữ “vô thỉ”
hay lắm, vô thỉ nghĩa là ǵ? Vô minh cũng chẳng thật;
do vậy, quư vị chớ nên nghĩ cơi Thật Báo Trang
Nghiêm là thật, chẳng có chuyện này! Cơi Thật Báo Trang
Nghiêm cũng chẳng thật! “Phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”.
Đức Phật chẳng nói cơi Thật Báo Trang Nghiêm là ngoại
lệ, chẳng nói như vậy! V́ thế, ngay cả cơi
Thật Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai
cũng là hư vọng; bất quá, trong ấy chẳng có
phân biệt, chẳng có chấp trước, mà cũng chẳng
có khởi tâm động niệm, đúng là lợi hại!
Các Ngài có năng lực cảm ứng đạo giao cùng hết
thảy chúng sanh trong mười pháp giới. Đừng tưởng
chúng ta khởi tâm, động niệm chẳng ai biết!
[Nếu nghĩ như vậy], quư vị đă lầm lẫn
quá đỗi! Quư vị nh́n vào duyên khởi của vũ trụ
và tác dụng của nó: Một niệm dấy lên, trong tự
tánh liền biến hiện A Lại Da. A Lại Da là vọng
tâm, vọng từ chân khởi, nó chẳng phải là chân, nhưng
nó nương vào chân để khởi lên. Giống như những
h́nh ảnh trong cái màn h́nh, màn h́nh không có h́nh ảnh, nhưng
h́nh ảnh nương vào màn h́nh để hiển hiện.
Không có màn h́nh, chúng chẳng hiện ra được. Nó là
tướng được biến hiện do nương
vào tự tánh, đấy là y báo. Chánh báo là chính ḿnh. Chính ḿnh
và cảnh giới khởi lên cùng lúc, đó gọi là ba tế
tướng của A Lại Da, ba tế tướng hoàn thành
trong một niệm.
Nói như các nhà khoa học hiện
thời, Nghiệp Tướng là năng lượng. Năng
lượng có thể biến thành tinh thần, mà cũng có
thể biến thành vật chất. Biến thành tinh thần
là thức thứ bảy, biến thành vật chất th́ là
Tướng Phần. Chúng ta nói Kiến Phần và Tướng
Phần cho dễ hiểu, th́ Kiến Phần là tinh thần,
Tướng Phần là vật chất; nó cũng là Cảnh
Giới Tướng. Tinh thần là Chuyển Tướng và
Kiến Tướng, nó thật sự chuyển biến. Cái
vốn có trong tự tánh là kiến văn giác tri (thấy,
nghe, hay, biết), những điều này vốn sẵn có.
“Nào ngờ tự tánh vốn tự
trọn đủ”, nó có kiến văn giác tri. Trong A Lại Da, kiến văn giác
tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Do đâu
mà có Thọ, Tưởng, Hành, Thức? Từ kiến
văn giác tri biến hiện ra. Nếu quư vị đă chuyển
thức thành trí, Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng
c̣n nữa, chúng lại hồi phục thành kiến văn
giác tri. Thường Tịch Quang có khởi tác dụng hay
chăng? Khởi tác dụng. V́ sao? Nó có kiến văn giác
tri. Do vậy, Thường Tịch Quang cảm ứng
đạo giao cùng hết thảy chúng sanh. Chúng sanh cầu Phật,
Thường Tịch Quang sẽ thật sự khởi cảm
ứng. Kinh dạy có bốn loại cảm ứng, trong
khi giảng kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi đă giảng rất rơ
ràng: Hiển cảm hiển ứng (cảm lẫn ứng đều
rơ rệt), hiển cảm minh ứng (cảm rơ rệt, ứng
ngấm ngầm), minh cảm hiển ứng (cảm ngấm
ngầm, ứng rơ rệt), và minh cảm minh ứng (cảm
lẫn ứng đều ngấm ngầm), bốn loại!
Thật sự có cảm ứng, nhưng chúng ta vô tâm sơ ư,
chẳng cảm nhận được. Niệm niệm
đều có cảm ứng, do vậy, Phật chẳng hề
rời khỏi chúng ta, mười phương ba đời
chư Phật chẳng hề rời khỏi. Phật là ǵ?
Phật là tự tánh, [nói đến sự cảm ứng
đạo giao tức là nói đến] đức năng
trong tự tánh.
Hiền
Thủ quốc sư đă dựa theo kinh Hoa Nghiêm để
soạn luận; bài luận văn Hoàn Nguyên Quán là một tác
phẩm dựa theo giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm để
viết. Quư vị thấy khi nó (tự tánh) khởi tác dụng,
bất luận là tinh thần hay vật chất, đều
có tác dụng trọn khắp pháp giới, tốc độ
ấy vô cùng nhanh. Ư niệm vừa dấy lên đă trọn
khắp pháp giới vô cùng nhanh, nhanh hơn ánh sáng, nhanh hơn
ḍng điện. Ánh sáng và điện chẳng thể trọn
khắp pháp giới, thua kém quá xa! Lẽ nào nó chẳng có cảm
ứng? Điều thứ hai [trong sách Hoàn Nguyên Quán] là nói: “Xuất sanh vô tận”. Xuất
sanh là biến hóa, biến hóa vô cùng. Điều thứ ba là
“hàm dung Không và Có”. Nếu chúng
ta hiểu được chân tướng sự thật này,
mới biết: Ư niệm không chỉ là chủ tể của
thân thể, tướng mạo, và sức khỏe của
chúng ta, không chỉ chủ tể những thứ ấy, mà
c̣n là chủ tể của địa cầu, núi, sông, đại
địa, chủ tể trọn khắp pháp giới hư
không giới, chủ tể các tinh hệ trong hư không khiến
chúng vận hành theo đúng quỹ đạo và quy luật.
Vũ trụ do ai sáng tạo? Do ư niệm sáng tạo, ư niệm
lợi hại lắm. Nếu ư niệm hơi bất chánh,
quư vị sẽ gặp nhiều tai ương, lắm bệnh
hoạn, lắm nỗi ưu sầu, nhiều nỗi lo
toan, cuộc sống rất nhọc nhằn! Nếu ư niệm
trở về chánh đạo, sẽ là cuộc sống đúng
mực trong cơi trời người, đúng là hạnh phúc viên
măn trong đường trời người; nhưng chớ
nên lưu luyến nhân thiên đạo. Lưu luyến nhân
thiên đạo sẽ chẳng tránh khỏi tạo tội
nghiệp. Tạo tội nghiệp th́ hễ biến hóa sẽ
lại biến thành ngạ quỷ, địa ngục, thảy
đều do ư niệm của quư vị biến ra, chẳng
có ǵ do bên ngoài đưa tới. Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài
pháp chẳng có tâm!
Cụ
Hoàng nói bốn câu ấy trong kinh Kim Cang: “Ư vị tức tướng ly tướng, ly tận
hư vọng chi tướng” (Có nghĩa là: Từ ngay nơi
tướng mà ĺa tướng, ĺa hết sạch các tướng
hư vọng). Câu này nên giảng như thế nào? Ĺa hết
sạch các tướng hư vọng, cội rễ của
tướng hư vọng là tam tế lục thô trong A Lại
Da. Trừ bỏ tam tế lục thô, quư vị sẽ buông
xuống các tướng hư vọng. Thảy đều buông
xuống, chẳng c̣n phân biệt, chẳng c̣n chấp
trước, thậm chí chẳng c̣n khởi tâm động
niệm nữa. “Tức kiến
Thật Tướng” (liền thấy Thật Tướng),
[tức là] quư vị sẽ thấy tự tánh thanh tịnh
viên minh thể. Quư vị hăy nhớ: Chúng ta mắt thấy,
tai nghe, sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chẳng
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, quư vị sẽ thấy tự tánh
thanh tịnh viên minh thể. “Cố
vân tức kiến Như Lai” (nên nói: Liền thấy
Như Lai). Chúc mừng quư vị, quư vị đă viên măn
thành tựu rốt ráo, thành tựu Pháp Thân Như Lai. “Thử chỉ Pháp Thân Như Lai dă.
Pháp Thân Như Lai ly nhất thiết tướng, cố vân
Thật Tướng vô tướng” (đây là nói về
Pháp Thân Như Lai. Pháp Thân Như Lai ĺa hết thảy tướng,
nên nói Thật Tướng vô tướng). Vô tướng là
thể tánh, giống như tỷ dụ màn h́nh mà chúng tôi đă
nêu: Màn h́nh là Thật Tướng, quả thật chẳng
có hết thảy các tướng. Hết thảy các huyễn
tướng hiển hiện trong ấy, nhưng nó (màn h́nh)
chẳng tiêm nhiễm mảy may, chẳng bị trở ngại
mảy may! Nói cách khác, về căn bản là [những huyễn
tướng ấy] chẳng liên quan ǵ với nó! Phải hiểu
ư nghĩa này: Chúng ta đă thành Phật, ta đă thành Phật,
nhưng c̣n có rất nhiều người c̣n chưa thành Phật,
mặt gương của ta (Đại Viên Kính Trí) thanh sạch,
những kẻ chưa thành Phật ấy hiển hiện
tướng trong tâm ta, có nhiễm bẩn cái màn h́nh ấy
hay chăng? Chẳng nhiễm! Tuy ta thành Phật, nhưng những
kẻ chưa thành Phật ấy chẳng hề nhiễm bẩn
chúng ta mảy may nào! Cùng sống một chỗ như nhau,
[mà Phật, Bồ Tát] sung sướng; c̣n họ (kẻ chưa
thành Phật) đang tạo nghiệp. Phật, Bồ Tát th́
sao? Phật, Bồ Tát giúp họ giác ngộ, giúp họ quay
đầu để họ giống như chính ḿnh. V́ thế,
học Phật mà chẳng phát Bồ Đề tâm, chẳng
phát tâm độ chúng sanh, sẽ chẳng thể thành! V́ sao
quư vị chẳng phát tâm? Chẳng phát là v́ quư vị chưa
buông xuống. Chưa buông chính ḿnh xuống th́ c̣n làm sao được
nữa? Quư vị c̣n có cái Ta, c̣n chấp trước, c̣n có
thành kiến, quư vị là phàm phu chính cống. V́ thế, chướng
ngại do đâu mà có? Do chính ḿnh mà có! Trừ chính ḿnh ra, chướng
ngại ǵ cũng không có. Hễ quư vị một niệm
giác ngộ, chướng ngại chẳng c̣n nữa. Khi mê,
chướng ngại trùng trùng.
“Đản phi vô Pháp Thân, cố
vân Thật Tướng vô bất tướng” (nhưng chẳng
phải là không có Pháp Thân, nên nói Thật Tướng chẳng
phải là không có tướng). Vô bất tướng là tác
dụng của Thật Tướng. Nếu Ngài đến
nhân gian độ các chúng sanh, có phải hiện tướng
hay không? Phải hiện! Phải hiện th́ là vô bất
tướng (chẳng phải là không có tướng). Thích
Ca Mâu Ni Phật hiện tướng; nếu Ngài chẳng hiện
tướng sẽ chẳng thể giảng kinh, thuyết
pháp, chẳng thể giúp đỡ chúng ta. Tuy Ngài hiện
tướng, nhưng tướng được hiện là
tướng giác ngộ, chẳng phải là tướng mê
hoặc. Tướng mê hoặc tạo nghiệp, khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác thảy đều
tạo nghiệp, tạo nghiệp ǵ vậy? Tâm luân hồi
tạo nghiệp luân hồi. Tạo thiện nghiệp sanh
trong tam thiện đạo, tạo ác nghiệp sanh trong tam ác
đạo, quyết định không thoát khỏi lục
đạo luân hồi. Lúc thị hiện, Ngài chẳng tạo
thiện mà cũng không tạo ác, chúng ta gán cho điều này
cái tên là “tịnh nghiệp”, do thanh tịnh nên gọi là tịnh
nghiệp. Do Ngài thị hiện tướng này, hằng ngày
khởi tác dụng, nhưng chẳng dính dáng tới lục
đạo. Không chỉ chẳng dính dáng tới lục
đạo, mà mười pháp giới cũng chẳng liên
can. Nếu Ngài chưa đoạn hết vô thỉ vô minh th́
vẫn trụ trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm. Đoạn hết
vô thỉ vô minh tập khí, sẽ trụ trong cơi Thường
Tịch Quang. Không sao cả! Vạn pháp là nhất thể,
phải biết điều này. V́ sao có thể cảm ứng
đạo giao cùng hết thảy chúng sanh? Phật độ
kẻ hữu duyên, nói theo nghĩa rộng, hết thảy chúng
sanh và Phật là nhất thể, có chúng sanh nào chẳng có
duyên với Phật? Thảy đều có duyên, nhất thể
mà! Làm sao có thể chẳng có duyên cho được? Hết
thảy y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
đều do tự tánh biến hiện, lẽ nào chúng chẳng
có duyên với tự tánh? Đâu có đạo lư ấy!
Phật
độ kẻ hữu duyên, đó là ǵ? Duyên chín muồi,
chính là nói về điều này. Duyên chưa chín, Phật tới
độ kẻ ấy, hắn sẽ chẳng nghe, chẳng
bằng ḷng tiếp nhận, đó gọi là “vô duyên”, chứ
chẳng phải là thật sự vô duyên! Do vậy, khi chúng
ta nghe câu này phải biết nghe, đừng nhụt chí!
Nghe xong, kẻ ấy có thể tin, hiểu, thật sự hành,
đó là duyên đă chín muồi! Người như vậy chắc
chắn đắc độ trong một đời này; Phật,
Bồ Tát giúp đỡ, dạy bảo, hướng dẫn
kẻ ấy, kẻ ấy nhất định xuất ly
tam giới, thoát ly lục đạo luân hồi, đấy
là ǵ? Chúng sanh căn cơ chín muồi. Gặp pháp môn Tịnh
Độ, kẻ ấy đời này thật sự niệm
Phật văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
cũng là viên măn đắc độ. Loại kém hơn là
những kẻ nghe xong cũng rất hiểu, nhưng ngũ
dục lục trần trong thế gian này không bỏ xuống
được, vẫn c̣n tham luyến, kẻ ấy đoạn
ác tu thiện, đời sau hưởng phước báo nhân
thiên. Kẻ ấy cũng tin tưởng Phật pháp, nhưng
duyên chưa chín muồi. Đối với những kẻ
này, Phật, Bồ Tát giúp họ tiến lên; v́ thế, gặp
Phật, Bồ Tát họ cũng được lợi lạc,
chắc chắn không bị tổn thất ǵ. [Đối với
kẻ] phiền năo tập khí nặng nề, chướng
duyên sâu đậm, Phật, Bồ Tát gieo chủng tử
trong A Lại Da thức của kẻ ấy, [khiến cho kẻ
ấy] thấy sắc, nghe tiếng, [tức là] thấy h́nh
tượng Phật, nghe âm thanh thuyết pháp của đức
Phật, một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở
thành hạt giống đạo, [tạo thành] chủng tử
trong A Lại Da. Cơ hội này cũng chẳng nhiều, trên
cả thế giới bao nhiêu người suốt đời
chẳng có duyên này, chẳng thấy tượng Phật,
chẳng nghe âm thanh của Phật, rất nhiều! Phật
chẳng ĺa bỏ chúng sanh, nhưng chúng sanh chẳng muốn,
mê man trong ngũ dục lục trần, mê quá sâu, không quay
đầu được, tuy gặp gỡ những nhân
duyên này, họ vẫn tránh né. Chúng ta biết họ vẫn
phải chịu khổ trong lục đạo, c̣n có rất
nhiều nỗi khổ họ phải gánh chịu. Chịu
xong các nỗi khổ, khổ tận cam lai, chịu hết
khổ rồi họ mới quay đầu, mới có ư niệm
mong được siêu độ.
Câu
kế tiếp nói rất hay: “Sanh
diệt chi pháp, toàn thuộc hư vọng, đản sanh
diệt chi trung, hữu cá bất sanh bất diệt đích”
(Pháp sanh diệt hoàn toàn thuộc về hư vọng, nhưng
trong sanh diệt có cái chẳng sanh, chẳng diệt). Phải
biết: Trong sanh diệt có cái chẳng sanh diệt, cái “chẳng
sanh diệt” là ǵ vậy? Là tự tánh. Tự tánh là như
thế nào, nó có h́nh dạng ư? Có! Kiến văn giác tri
(thấy, nghe, hay, biết). Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca
Mâu Ni Phật đă bảo vua Ba Tư Nặc: “Nhục thân
này của bệ hạ là sanh diệt; nhưng trong nhục
thân ấy có cái chẳng sanh diệt. Cái chẳng sanh chẳng
diệt chính là cái Ngă thật sự”. Vua hỏi: Nó ở đâu?
Đức Phật dạy: “Tánh Thấy”. Chư vị phải
biết: Nhăn Thức có sanh diệt, tánh Thấy chẳng sanh
diệt. Đức Phật hỏi nhà vua: “Bệ hạ thấy
nước sông Hằng lần đầu vào lúc mấy tuổi?”
Vua suy nghĩ: Lúc ba tuổi, mẹ dẫn vua đến bên
sông Hằng, biết con sông ấy tên là Hằng Hà, vua thấy
nước sông Hằng. Sau đấy, đức Phật lại
hỏi vua: “Lúc bệ hạ mười tuổi, có cảm
thấy thân thể già suy hơn lúc ba tuổi hay chăng?” “Đúng
vậy!” Lúc hai mươi tuổi th́ sao? Hai mươi tuổi
lại già suy hơn mười tuổi. Bị già suy th́ là sanh
diệt. Năm nay bệ hạ bao nhiêu tuổi? Sáu mươi
hai tuổi! Vua Ba Tư Nặc và Thích Ca Mâu Ni Phật cùng tuổi,
sáu mươi hai tuổi. Đức Phật nói: “Khi nhà vua
sáu mươi hai tuổi nh́n sông Hằng th́ cái thấy ấy
có biến đổi hay không?” Vua thưa: Thấy chẳng
thay đổi! [Đức Phật dạy]: Chẳng biến
th́ là thật. Thân thể biến đổi, mỗi năm
phải già đi, đó là giả, là sanh diệt. Do vậy,
trong cái thân sanh diệt có tánh chẳng sanh diệt. Tánh Thấy
chẳng sanh, chẳng diệt, tánh Nghe chẳng sanh, chẳng
diệt. Tuổi già mắt hoa, đó là ǵ? Đó là công cụ
có vấn đề, chẳng phải là tánh Thấy có vấn
đề. Quư vị mang kiếng vào sẽ lại [nh́n] b́nh
thường; do vậy, Nhăn Thức là sanh diệt, [điều
này] chứng tỏ tánh Thấy chẳng sanh diệt, tánh
Nghe chẳng sanh diệt. Nhăn Thức là ǵ? Sau khi quư vị thấy,
bèn phân biệt, chấp trước, đó là do thức thứ
sáu, tức Ư Thức, và thức thứ bảy thao túng ở
phía sau. Ư Thức, tức thức thứ sáu, phân biệt, thức
thứ bảy chấp trước, chúng thao túng quư vị. Nhưng
nói tới kiến văn giác tri th́ chúng chẳng hề liên
quan ǵ đến thức thứ sáu và thứ bảy. Do vậy,
trong sanh diệt có cái chẳng sanh diệt. Chẳng sanh chẳng
diệt gọi là Pháp Thân, hay Pháp Tánh. Do vậy, phải quư
trọng, nhờ cái thân giả này để tu những thứ
chân thật, [đó gọi là] “tá
giả tu chân”. Giả là thân, tức căn thân có lục
căn, chân là ǵ? Chân là chân tánh.
Giao
Quang đại sư giảng kinh Lăng Nghiêm, Ngài có bản
chú giải mang tên Chánh Mạch, viết rất hay! Do trước
thời Ngài, Giao Quang đại sư là người đời
Minh, cùng thời đại với Liên Tŕ đại sư.
Trước thời Ngài, hễ giải thích kinh Lăng
Nghiêm, quá nửa đều dùng thuyết Tam Chỉ Tam Quán của
tông Thiên Thai nhằm giải thích Xa Ma Tha, Tam Ma và Thiền Na
trong kinh Lăng Nghiêm. Giao Quang đại sư đưa ra
cách nh́n mới mẻ. Ngài nói trong kinh Lăng Nghiêm “bỏ thức dùng căn”, khác
hẳn tông Thiên Thai, v́ sao? Thiên Thai chẳng ĺa tâm ư thức,
c̣n kinh Lăng Nghiêm là “bỏ thức dùng căn”; cho nên, cách
giảng và tư tưởng chẳng giống với tông
Thiên Thai. V́ thế, Ngài soạn một bản chú giải khác
gọi là Chánh Mạch. Quư vị đọc lời tựa
[của bộ chú giải ấy], thấy có một đoạn
nhân duyên: Ngài đă hết tuổi thọ, A Di Đà Phật
đến tiếp dẫn Ngài, Ngài xin phép A Di Đà Phật:
“Kinh Lăng Nghiêm chú giải chưa viên măn, con phải soạn
một bản chú giải mới”. Ngài xin A Di Đà Phật
hăy chờ, chờ Sư chú giải hoàn tất sẽ lại
đến thế giới Cực Lạc. A Di Đà Phật
đồng ư, ra đi. Ngài chẳng nói lời giả dối,
trong lời tựa có một câu chuyện như thế. Do
vậy, Lăng Nghiêm là bỏ thức dùng căn, dạy chúng
ta tu hành như thế nào? Quư vị nh́n th́ chớ nên dùng Nhăn
Thức để nh́n, hăy dùng tánh Thấy để thấy;
nghe th́ chớ nên dùng Nhĩ Thức để nghe, hăy dùng tánh
Nghe để nghe, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát,
xoay cái nghe để nghe tự tánh, tánh thành vô thượng
đạo. Nói khá lắm, nhưng chẳng dễ dàng! Bỏ
thức dùng căn chẳng dễ dàng!
Bỏ
thức dùng căn có nghĩa là ǵ? Buông khởi tâm động
niệm, phân biệt, chấp trước xuống, quư vị
dùng toàn là kiến văn giác tri, [kiến văn giác tri là] căn
tánh của sáu căn, chẳng phải là sáu thức. Những
đạo lư này chúng ta đều hiểu rơ th́ gọi là
“giải ngộ”. Chúng ta chưa làm được, chưa
làm được là chưa buông xuống. Buông xuống sẽ
là thật sự [làm được], bèn gọi là “chứng
ngộ”. Hiểu rơ nhưng chưa làm được là giải
ngộ. Giải ngộ cũng là do huân tập kinh giáo nhiều
lần, trường thời huân tập sẽ dần dần
hiểu rơ. Hiểu rơ gọi là “thấy thấu suốt”,
biết chân tướng sự thật là như vậy. Do
vậy, trong cuộc sống hằng ngày, trong hội Lăng
Nghiêm, đức Phật dạy chúng ta, phải gắng hết
sức dùng căn tánh của sáu căn, đừng nên dùng sáu
thức. Tôi nhắc lại lần nữa, thức là ǵ? Thức
là chấp trước, Mạt Na là chấp trước, ư
thức là phân biệt, thức thứ sáu, tức ư thức,
là phân biệt, A Lại Da là giữ lại ấn tượng.
Năm thức trước chịu ảnh hưởng từ
ba tế tướng của A Lại Da, đi theo chúng. V́ vậy,
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân bèn tạo nghiệp, năm
thức trước bèn tạo nghiệp. Nếu vâng theo tự
tánh, vâng theo kiến văn giác tri, năm thức trước
sẽ gọi là Thành Sở Tác Trí, thành tựu sự hóa
độ hết thảy chúng sanh của Như Lai, biến
thành công cụ để độ chúng sanh, vô lượng
công đức. Nói thật ra, bỏ thức là thức thứ
sáu, tức ư thức, chớ nên phân biệt; bỏ thức
thứ bảy, chẳng chấp trước; bỏ A Lại
Da thức, không lưu dấu vết, đó là cảnh giới
ǵ? Thanh tịnh b́nh đẳng giác trong kinh Vô Lượng
Thọ! Chẳng chấp trước, tâm bèn thanh tịnh;
chẳng phân biệt, tâm bèn b́nh đẳng; chẳng mê hoặc
sẽ khai ngộ. Giao Quang đại sư chú giải rất
hay. V́ vậy, những bản chú giải kinh Lăng Nghiêm
trước thời ngài Giao Quang đều gọi là “cựu
chú”; sau ngài Giao Quang, rất nhiều người học theo
Ngài, gọi bản chú giải ấy là “tân chú”. Cựu chú
cũng rất khó có, v́ sao? Người b́nh thường học
tập khá dễ. “Tân chú” th́ chú giải hay lắm, nhưng
kẻ mới học chẳng dễ ǵ đạt tới. Đây
là nhắc nhở chúng ta: Trong sắc thân sanh diệt này, thật
sự tồn tại cái không sanh diệt. Cái tánh chẳng sanh
chẳng diệt ấy, trừ kiến văn giác tri ra, chẳng
có cách nào nêu bày được! Nói tới kiến văn
giác tri th́ cũng phải có đôi chút cơ sở nơi pháp
Đại Thừa; không có cơ sở sẽ khó giảng rơ
ràng, rất khó hiểu được!
“Chư sanh diệt pháp thị sai
biệt tướng, đản sai biệt chi trung, hữu
cá vô sai biệt đích. Bất sanh bất diệt, vô hữu
sai biệt, tức thị b́nh đẳng tướng”
(Các pháp sanh diệt là tướng sai biệt, nhưng trong
sai biệt có cái chẳng sai biệt. Chẳng sanh chẳng
diệt, chẳng có sai biệt, tức là tướng b́nh
đẳng). Câu này cũng chẳng dễ hiểu. Sai biệt
là ǵ? Sai biệt là tướng, chúng ta nói một cách thông thường
sẽ là tướng tương tự liên tục, sanh diệt
trong từng sát-na, đó là sai biệt. Vô sai biệt: Vô sai
biệt là tánh. Chúng ta dùng màn h́nh TV [để diễn tả]
sẽ dễ hiểu. Âm thanh và sắc tướng trong màn
h́nh sanh diệt trong từng sát-na, có sai biệt; nhưng màn
h́nh không có sai biệt, màn h́nh là tướng b́nh đẳng,
sai biệt và vô sai biệt chẳng hai. “Cố vân Thật Tướng năi b́nh đẳng nhất
tướng dă” (v́ thế nói Thật Tướng là một
tướng b́nh đẳng). Một niệm ấy có h́nh, có
thức, đều chẳng thể được, đó
gọi là “b́nh đẳng nhất
tướng”. Hiện tượng tinh thần và hiện
tượng vật chất đều do một niệm khởi.
Quư vị phải biết: Một niệm ấy chính là “nhất
niệm” như Di Lặc Bồ Tát đă giảng; trong một
giây có bao nhiêu “nhất niệm”? Nếu chúng ta nói khảy ngón
tay năm lần [trong một giây], khảy nhanh sẽ được
năm lần, [trong một giây] sẽ có một ngàn sáu trăm
triệu niệm, lẽ nào chúng chẳng b́nh đẳng? Đương
nhiên là b́nh đẳng, đấy là huyễn tướng, chẳng
thật!
Chúng
ta lại lật sang trang mười tám, vẫn là nói về
vấn đề này. “Thật
Tướng nghĩa thâm”, [tức là] ư nghĩa [Thật
Tướng] này quá sâu! “Nhược
minh Thật Tướng, tức vi ngộ Đại Thừa
lư” (nếu hiểu Thật Tướng, tức là ngộ
lư Đại Thừa). Lư là ǵ? Lư là Thể của kinh, mà cũng
là cái để nương vào mà nói kinh này. Kinh có đạo
lư, đạo lư ấy là lư Đại Thừa. Kế đó,
lăo cư sĩ dùng tỷ dụ để giảng rơ. “Tư dĩ dụ minh: Thí như
dĩ kim chế tác tháp, tượng, b́nh, oản, xuyến,
hoàn” (ở đây, dùng tỷ dụ để giảng rơ:
Ví như lấy vàng chế thành tháp, tượng, b́nh, chén,
xuyến, ṿng), những điều này chúng ta đều hiểu,
chúng là đồ vật được chế bằng vàng.
“Các hiển sai biệt chi
tướng” (mỗi thứ đều tỏ lộ tướng
sai biệt). Nó có h́nh cái tháp, tướng ấy có thể là
tượng Phật, mà có thể là tượng người,
có thể mang h́nh dáng của những món đồ chơi, đó
là ǵ? Vật dụng! Dùng vàng và đồ vật làm tỷ
dụ, mỗi món đều có h́nh tướng khác biệt.
“Thảng tương chúng khí,
trùng nhập dă lô, phục hóa vi kim, nguyên hữu chư
tướng tận giai tiêu diệt, đản các khí bổn
thể chi kim nhưng cựu như thị” (Nếu đem
các món đồ lại bỏ vào ḷ nung, chúng lại hóa thành
vàng, các tướng vốn có đều bị tiêu diệt
sạch, nhưng chất vàng là bản thể của mỗi
món vẫn y như cũ). Đều đem nung chảy ra,
chúng chính là vàng. “Khả kiến
các khí sai biệt chi tướng, hữu sanh, hữu diệt,
giai thuộc hư vọng; đản các khí bổn thể
chi kim, b́nh đẳng nhất tướng, bất sanh, bất
diệt, bất tăng, bất giảm” (Có thể thấy
tướng sai biệt của các món đồ có sanh, có diệt,
đều là hư vọng; nhưng chất vàng là bản
thể của các món đồ là một tướng b́nh
đẳng, chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng tăng,
chẳng giảm). Tỷ dụ này dễ hiểu. Cổ
đại đức dùng một câu để nói: “Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim”
(dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng là vàng). Lấy
vàng sánh với tự tánh thanh tịnh viên minh thể, đó
là tự tánh; sánh ví hiện tượng tinh thần và hiện
tượng vật chất trong khắp pháp giới hư
không giới như các món đồ, chúng đều do cái Thể
ấy biến hiện. Thể có thể sanh, có thể hiện,
A Lại Da Thức có thể biến. V́ sao trong Nhất Chân
pháp giới, mọi thứ chẳng thay đổi, vĩnh
hằng bất biến? Chúng ta bèn hiểu rơ: A Lại Da có
thể biến, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười
pháp giới là cái được biến (sở biến). Trong
cơi Thật Báo Trang Nghiêm không có A Lại Da, A Lại Da đă
chuyển thành Đại Viên Kính Trí. V́ vậy, nó chỉ có thể
sanh, có thể hiện, chẳng có sở biến lẫn năng
biến. Do đó, trong thế giới ấy, vĩnh hằng
bất biến. Người trong thế giới ấy hóa sanh,
dung mạo vĩnh viễn bất biến, thân vĩnh hằng
bất biến, đúng như chúng ta thường nói: “Bồ Tát Bồ Tát, niên niên thập
bát” (Bồ Tát năm nào cũng là mười tám tuổi),
Ngài chẳng già! Ngài vĩnh viễn chẳng già, v́ sao? Ngài
không có A Lại Da thức. Chúng ta bị biến đổi
v́ A Lại Da thức. A Lại Da thức có thể biến,
do vậy, chúng ta sanh, lăo, bệnh, tử là v́ bị nó biến.
Chính nó lại có sanh diệt, cho nên những thứ do nó biến
ra thảy đều có sanh diệt. Do vậy, trong Nhất
Chân pháp giới, chúng ta gọi là cơi Thật Báo Trang Nghiêm, trong
ấy không có sanh diệt, v́ các Ngài chẳng dùng A Lại Da.
Do vậy có thể biết: Tứ thánh pháp giới có biến
đổi hay chăng? Quư vị hăy suy nghĩ: A La Hán, Bích Chi
Phật, Bồ Tát, Phật, tức là Phật trong mười
pháp giới đều có biến, họ dùng A Lại Da, bất
quá tốc độ biến đổi chậm một chút,
không nhanh như chúng ta, [chúng ta] biến đổi rất
nhanh, họ biến đổi chậm hơn một chút. V́
thế, đạo lư là ở chỗ này!
Hoa trong
thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng tàn,
vĩnh viễn chẳng khô; khí hậu chẳng quá lạnh
hay quá nóng, không có những hiện tượng này. V́ sao? Người
trong thế giới ấy chẳng dùng A Lại Da; người
đới nghiệp văng sanh cũng chẳng dùng, điều
này rất lạ lùng! V́ sao người đới nghiệp
văng sanh chẳng dùng? Được bổn nguyện của
A Di Đà Phật gia tŕ, quư vị thấy bốn
mươi tám nguyện đă nói rất rơ ràng, sanh vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát, [chuyện này được] nói
trong nguyện nào? Trong nguyện thứ mười chín, tức
là nguyện phát Bồ Đề tâm, đều là A Duy Việt
Trí Bồ Tát. A Duy Việt Trí là ǵ? Từ Thất Địa
trở lên! Tuy là đới nghiệp văng sanh, phiền năo tập
khí đúng là một phẩm cũng chưa đoạn, nhưng
sự hưởng thụ, đăi ngộ trong thế giới
Cực Lạc là sự đăi ngộ Thất Địa Bồ
Tát. Quư vị chẳng phải là Thất Địa Bồ
Tát, nhưng tới đó, hưởng thụ sự đăi
ngộ dành cho Thất Địa Bồ Tát, do ai ban cho quư vị?
A Di Đà Phật ban cho quư vị, hưởng ké từ A Di
Đà Phật, cậy vào phước báo của A Di Đà Phật,
chẳng phải là của chính ḿnh. Trong thập
phương chư Phật thế giới, không có sự thù
thắng này, chỉ có thế giới Cực Lạc là có sự
đăi ngộ đặc thù này! Đức Phật chẳng
nói “đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, trừ cơi Phàm
Thánh Đồng Cư ra”, Ngài chẳng nói lời ấy! Nếu
chẳng nói lời ấy, hạ hạ phẩm văng sanh trong
cơi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có sự đăi ngộ
này. Quư vị thật sự hiểu rơ, minh bạch chuyện
này, há c̣n có thể chẳng cầu sanh Tịnh Độ ư?
C̣n làm chuyện khác nữa ư? Làm chuyện khác, mệt chết
luôn, nhưng chưa chắc đă thành tựu trong một đời.
Quư vị khăng khăng một mực niệm một câu
A Di Đà Phật này, đôi ba năm sẽ thành công, sẽ
đạt được, c̣n làm [điều ǵ khác] nữa?
Quư vị thật sự buông xuống vạn duyên; v́ sao người
khác chưa buông xuống được? Chưa hiểu rơ.
Do vậy, sau khi hiểu rơ, ta thường khuyên người
khác; nhưng cũng chẳng phải là khuyên bất cứ
ai v́ kẻ ấy chưa chắc đă tiếp nhận. Ta
khuyên mọi người, chúng ta hăy suy nghĩ cho nhiều,
học theo Liên Tŕ đại sư. Liên Tŕ đại sư
đă giác ngộ, đă hiểu rơ, bèn nói: “Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người
khác ngộ”, quư vị ưa thích th́ hăy dụng công nơi
đó, tôi chẳng làm! “Tám vạn
bốn ngàn hạnh, dành cho người khác hành”, tôi cứ
một bộ kinh Di Đà, một câu A Di Đà Phật, định
rồi! Liên Tŕ đại sư chẳng làm nữa, nêu gương
tốt cho người đời sau. Tịnh Độ
ngũ kinh đều được, thọ tŕ toàn bộ ngũ
kinh cũng được, mà thọ tŕ một kinh trong ngũ
kinh cũng được, quư vị thấy pháp môn này thuận
tiện lắm, chẳng thể nghĩ bàn lắm!
Đối với
pháp môn này, giảng giải Tánh, Tướng, Lư, Sự, nhân
quả thấu triệt nhất, minh bạch nhất là kinh
Vô Lượng Thọ. Quả thật, khó thể đọc
trọn cả năm bản dịch gốc của kinh Vô
Lượng Thọ. V́ vậy, đời Tống, cư sĩ
Vương Long Thư hội tập đầu tiên, có thể
nói là cổ nhân đă sớm nghĩ hội tập là chuyện
bắt buộc phải làm, đến phần sau sẽ có
một đoạn chuyên nói rơ [chuyện này]. Sau đấy,
chúng ta mới thật sự nhận biết bản hội
tập này của Hạ lăo cư sĩ chẳng thể
nghĩ bàn, hội tập thật viên măn, chẳng dùng ư tưởng
của chính ḿnh, ngay cả tựa đề kinh cũng là hội
tập. Bản dịch gốc đời Tống dịch là
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm Kinh, quư vị thấy cụ bỏ chữ Kinh, dùng
Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ
Trang Nghiêm; bản dịch đời Hán là Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh, nay hai tựa đề kinh được gộp
thành một, trở thành Phật Thuyết Đại Thừa
Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác Kinh, đúng là áo trời không vết may, chẳng thêm vào
một chữ nào! Bản hội tập của Vương
Long Thư có tựa đề là Đại A Di Đà Kinh, nhưng
trong kinh chẳng có những chữ này! C̣n tựa đề
kinh của cụ Hạ là nguyên văn, chúng ta chẳng thể
không bội phục Ngài. Đề mục này tuyệt quá, phô
rơ nhân quả của thế giới Cực Lạc. Đại
Thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ là đức, Trang
Nghiêm là tướng hảo. Quư vị thấy quả báo là
như đức Thế Tôn trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
quư vị thấy chẳng phải là đề mục này
hay sao? Đại Thừa là trí huệ, Vô Lượng Thọ
là đức, trang nghiêm là tướng, quả đấy!
Quả đức. Cách tu quả ấy ra sao? Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác! Bởi lẽ, quư vị tu “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, sẽ chứng Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Trang Nghiêm. Quư vị thấy tựa đề
này viên măn lắm!
Đối
với tỷ dụ này của cụ Hoàng, chúng ta niệm
niệm đều [thấu hiểu] là được rồi.
Có thể thấy tướng sai biệt của các món đồ,
có sanh, có diệt, đều là hư vọng, nhưng chất
vàng bản thể của các món đồ là b́nh đẳng
nhất tướng, chẳng sanh, chẳng diệt. “Dĩ thượng, dĩ kim dụ
chân thật b́nh đẳng chi Thật Tướng, dĩ
kim khí dụ chủng chủng sai biệt tướng”
(trên đây, dùng vàng để sánh ví Thật Tướng b́nh
đẳng chân thật, dùng các vật dụng bằng vàng để
sánh ví các tướng sai biệt), y báo và chánh báo trong mười
pháp giới sai biệt. “Do
thượng dụ khả minh, nhược khán phá chư
kim khí (tháp, tượng, b́nh, oản, xuyến, hoàn đẳng)
hư vọng sai biệt chi tướng, tức kiến
chư khí trung b́nh đẳng chân thật chi kim” (nếu
thí dụ trên đây có thể nói rơ: Nếu thấy thấu
suốt tướng sai biệt hư vọng của các món
đồ bằng vàng (tháp, tượng, b́nh, chén, xuyến,
ṿng v.v...), sẽ liền thấy chất vàng b́nh đẳng
chân thật). Quư vị hăy thấy vàng, đừng chấp trước
tướng. Quư vị lấy vàng, bèn tùy tiện lấy món
nào cũng đều là vàng. Bảo quư vị lấy vàng ra,
quư vị thấy cái này là tháp, cái kia là tượng, cái đó
là b́nh, quư vị nói “không có vàng, chẳng có hoàng kim” quư vị
chấp tướng rồi! Cổ nhân dùng [tỷ dụ] “dĩ kim tác khí, khí khí giai kim”,
dùng tỷ dụ này. “Dĩ dụ
ly nhất thiết pháp hư vọng chi tướng” (để
tỷ dụ ĺa tướng hư vọng của hết
thảy các pháp), quư vị sẽ thấy Thật Tướng,
sẽ thấy chân tánh. Tánh và tướng vĩnh viễn chẳng
thể tách rời, nhưng đối với tướng
th́ sáu căn tiếp xúc được, nh́n thấy nó, sờ
được nó, c̣n tánh th́ sáu căn chẳng thể tiếp
xúc, nh́n không thấy, nó chẳng phải là vật chất,
mà cũng chẳng phải là tinh thần. Chẳng phải là
vật chất, nên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chẳng
tiếp xúc được; chẳng phải là tinh thần,
quư vị tưởng tượng chẳng ra, v́ Thọ,
Tưởng, Hành, Thức của quư vị đều không thấu
đạt. Nếu buông Thọ, Tưởng, Hành, Thức xuống,
sau khi buông xuống, Thể của Thọ, Tưởng,
Hành, Thức là kiến văn giác tri sẽ thấy được!
Kiến văn giác tri là chân tánh.
Trong [chú giải] kinh Lăng Nghiêm, Giao
Quang đại sư bảo “bỏ thức dùng căn”, [tức
là] dùng căn tánh của sáu căn. Căn tánh là kiến
văn giác tri, chẳng phải là Thọ, Tưởng, Hành,
Thức; cũng có nghĩa là: Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là vọng tâm, kiến văn giác tri là chân tánh. Lúc mê, kiến
văn giác tri biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Khi giác ngộ, có thể buông Thọ, Tưởng, Hành, Thức
xuống, khiến cho kiến văn giác tri hiện tiền,
đó gọi là “chuyển thức thành trí”. Nói cách khác, thấy
sắc, nghe tiếng, chớ nên chấp trước, quư vị
chẳng dùng Mạt Na; chớ nên phân biệt, chẳng dùng
ư thức; chớ nên khởi tâm động niệm, chẳng
dùng A Lại Da thức. Trong Thiền Tông, tham Thiền th́ “tham”
là ǵ? Ĺa tâm ư thức là “tham” (參). Tâm ư thức là biết! A Lại
Da là khởi tâm động niệm, Mạt Na là chấp
trước, ư thức là phân biệt. Chẳng phân biệt,
chẳng chấp trước, không khởi tâm, không động
niệm, đó là ĺa tâm ư thức, ĺa tâm ư thức th́ gọi
là “tham”. Do vậy, nghiên cứu giáo, chẳng dùng tâm ư thức
th́ gọi là “tham cứu”. Nếu dùng tâm ư thức, bèn gọi
là “nghiên cứu”. Nghiên cứu và tham cứu khác nhau, tham cứu
sẽ kiến tánh, c̣n nghiên cứu chẳng thể kiến
tánh. Dùng nghiên cứu, Phật pháp biến thành triết học,
biến thành Phật học; ĺa tâm ư thức sẽ là học
Phật, thật sự có thể thành Phật. Dùng tâm ư thức
chẳng thể thành Phật, nhất định phải
biết điều này! Dùng tâm ư thức, nói thật ra, chẳng
thể vượt thoát lục đạo luân hồi, v́ lục
đạo luân hồi do tâm ư thức biến hiện.
Tiếp
đó nói: “Ly hư vọng sai
biệt chi tướng, cố vân vô tướng” (do ĺa
tướng sai biệt hư vọng nên gọi là vô tướng).
Đây là ư nghĩa tôi vừa mới nói. Sáu căn của chúng
ta đối với cảnh giới sáu trần bên ngoài thảy
đều là hư vọng. Sáu căn của chính ḿnh đều
là hư vọng, lục thức là hư vọng, cảnh
giới bên ngoài cũng là hư vọng. Chỉ cần không
khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng
chấp trước, sẽ lập tức là [vô tướng]!
Nó là vô tướng, ngay nơi đó là vô tướng, trọn
chẳng trừ khử tướng, mà ngay lập tức là
vô tướng. Do vậy, phải hiểu rơ, minh bạch ư
nghĩa “tướng” và “vô tướng” này. “Ư hư vọng sai biệt
chư tướng chi trung, hữu chân thật b́nh đẳng
chi bản thể, cố vân vô bất tướng.
Đương tướng ly tướng, tướng nhi
vô tướng, năi hiển Thật Tướng” (Trong các
tướng sai biệt hư vọng, có cái bản thể
chân thật b́nh đẳng, nên nói chẳng phải là không có
tướng. Từ ngay nơi tướng mà ĺa tướng,
có tướng mà vô tướng, nên mới hiển lộ
Thật Tướng). Mấy câu này nói hay quá, mười
hai chữ này (“Đương
tướng ly tướng, tướng nhi vô tướng,
năi hiển Thật Tướng”) vô cùng hay, ngay lập tức
là nó, một và nhiều chẳng hai. Ngay trong cuộc sống
hằng ngày, trong công tác, trong xử sự, đăi người
tiếp vật, chúng ta phải sốt sắng, thực hiện
viên măn, tận tâm tận lực làm, đấy là “đương tướng”
(từ ngay nơi tướng). Làm tốt đẹp, trong tâm
thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó là “ly tướng”. Do vậy, “đương tướng”
và “ly tướng” là đồng
thời, chẳng cắt rời thành hai thứ th́ mới thật
sự hữu dụng! Trong cuộc sống hằng ngày, quư
vị sẽ sống thật sự hạnh phúc mỹ măn,
tự tại vô cùng! Trong công việc cũng như thế,
đăi người tiếp vật cũng như thế, quư
vị sẽ khiến cho hết thảy mọi người
vui vẻ. Do vậy, trong giáo pháp Đại Thừa có nói: “Bồ Tát sở tại chi xứ,
linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ tâm” (Bồ
Tát ở chỗ nào cũng có thể khiến cho hết thảy
chúng sanh đều sanh tâm hoan hỷ), v́ sao Ngài có thể làm
cho hết thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ? Ngài từ ngay
nơi tướng mà ĺa tướng, ly tướng và đương
tướng cùng lúc, ai chẳng vui vẻ! Trước hết
là chính quư vị vui vẻ, quư vị đă vui vẻ th́ người
khác thấy quư vị cũng vui vẻ.
Chúng
ta lại xem đoạn kế tiếp: “Đản Thật Tướng ly ngôn thuyết, chánh
như Nam Nhạc Hoài Nhượng vân: Thuyết tự nhất
vật, tức bất trúng” (Nhưng Thật Tướng
ĺa ngôn thuyết, đúng như ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng
đă nói: “Nói dường như có một vật th́ chẳng
trúng”). Câu này ở trong Đàn Kinh. Pháp sư Hoài Nhượng
khai ngộ, minh tâm kiến tánh trong hội của Lục Tổ
Huệ Năng đại sư. Khi Ngài kiến tánh, Lục
Tổ giống như đưa ra một đề mục
nhằm khảo nghiệm Sư: “Ông kiến tánh, vậy tánh
là như thế nào?” Sư trả lời bằng câu này: “Nói dường như có một
vật th́ chẳng trúng”, nói không được! Lục
Tổ gật đầu, ấn khả, Tổ nói: “Ông như thế, mà ta cũng như
thế”, ấn chứng Sư thật sự khai ngộ,
chẳng phải là giả khai ngộ. “Cố thật phi nhậm hà thế gian thí dụ sở
năng thâm minh” (cho nên đúng là bất cứ thí dụ
nào của thế gian cũng chẳng thể giảng rơ rệt
sâu xa được). Tỷ dụ chỉ có thể sánh ví
mường tượng, tuyệt đối chẳng có
cách nào tỷ dụ sát sự thật, một tí biện pháp
cũng chẳng có. Do vậy, hiện thời khoa học kỹ
thuật phát triển, chúng ta dùng h́nh ảnh nơi màn h́nh TV
để tỷ dụ, so ra gần sát, dễ hiểu hơn
những tỷ dụ trước kia. Xưa kia, đúng là
khó! Do vậy, khi chưa có những thứ
khoa học, mà cổ đại đức, đừng nói
là chứng ngộ, chỉ có thể giải ngộ thôi, chúng
ta đều bội phục năm vóc sát đất. Hiện
thời, chúng ta nhờ rất nhiều những thứ thuộc
về khoa học mà thấy, nghe, hay, biết, nên mới có
thể thấu hiểu những điều này, mới
có thể nói rơ ràng, giảng rơ ràng. Tuy nói rơ ràng, giảng rơ
ràng, chỉ là gần sát, vẫn c̣n cách một tầng. Tầng
ấy chính quư vị phải ngộ, bất luận là ai cũng
chẳng giúp đỡ được! Phật đến
giảng cho quư vị cũng chẳng có cách nào! Phật đến
giảng cho quư vị th́ cũng chỉ có thể nói đến
mức này!
Nói đến
mức độ này th́ có thể, nhưng nếu quư vị
muốn thật sự khế nhập cảnh giới, chứng
ngộ, chẳng phải là bảo quư vị buông xuống
hay chăng? Quả thật là trong cuộc sống, mỗi
ngày quư vị ăn cơm, chớ nên so đo món ăn này, món
ăn nọ, đừng nên so đo mùi vị nữa. Mặc
quần áo, thứ ǵ cũng được! Ấm áp là được
rồi, đừng nên kén chọn!
Đó là ǵ vậy? Tập khí, tức tập khí phiền năo
của quư vị. Đấy là ǵ? Chấp trước, nhất
định phải như thế nào đó. Hễ nhất
định phải như thế nào đó sẽ phiền
phức liền! Phải học theo Đại Thừa Bồ
Tát tự tại tùy duyên, bất luận câu thúc ǵ đều
chẳng có, cái ǵ cũng đều tốt, chẳng có
ǵ không tốt. Người ta làm chuyện tốt, tốt!
Người ta làm chuyện xấu, cũng tốt luôn. Người
ta hưởng phước, tốt! Người ta đang chịu
tội trong địa ngục, cũng tốt. Chịu tội
trong địa ngục là ǵ? Tiêu nghiệp chướng! Kẻ
ấy có lắm nghiệp chướng dường ấy,
nhất định phải tới đó để tiêu,
tiêu hết th́ chẳng phải là tốt đẹp hay sao? Cớ
sao chẳng phải là chuyện tốt? Sau đấy mới
hiểu: Mười pháp giới vốn là b́nh đẳng. Quư
vị làm chuyện tốt nhiều ngần ấy, đến
thiên đường để hưởng phước,
đó là ǵ? Tiêu phước báo ấy! Quư vị làm chuyện
tốt nhiều ngần ấy th́ phải tiêu, làm những
chuyện ác th́ phải đến tiêu [nghiệp chướng]
trong địa ngục. Quư vị thấy đó: Tiêu phước
báo, tiêu nghiệp chướng; thảy đều tiêu sạch,
chẳng phải là kiến tánh hay sao? Cái đáng quư là buông
xuống, chẳng có ǵ khác! Do vậy, tôi suốt đời
tôn trọng thầy, lúc gặp mặt thầy trong ngày đầu
tiên, thầy đă dạy tôi “thấy
thấu suốt, buông xuống”. Tôi mới biết người
tu hành từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như
Lai tu ǵ? Thấy thấu suốt, buông xuống! Buông xuống
giúp cho thấy thấu suốt, thấy thấu suốt lại
giúp buông xuống, hai phương pháp này giúp đỡ thành
tựu lẫn nhau từ Sơ Phát Tâm cho đến địa
vị Như Lai. Đẳng Giác Bồ Tát nếu buông một
phẩm tập khí sanh tướng vô minh cuối cùng xuống,
sẽ viên măn, vẫn là buông xuống! Chỉ có buông xuống
mới có thể tiến lên cao; chỉ có hiểu rơ mới
thật sự chịu buông xuống. Do quư vị chẳng hiểu
rơ, nên không buông xuống được; hễ hiểu rơ sẽ
buông xuống.
Hiện
thời, điều đáng quư là hiểu rơ, rành rẽ thế
giới Cực Lạc, hiểu rành rẽ thế giới này,
so sánh giữa hai thế giới, bèn buông thế giới Sa
Bà xuống, ta về thế giới Cực Lạc, điều
này là trọng yếu. Quư vị thật sự muốn buông
vọng tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
điều này nói dễ, làm chẳng dễ, thật sự
là khó! Do nguyên nhân ǵ? Nghiệp chướng phiền năo tập
khí quá nặng, từ vô lượng kiếp đến nay đă
tích lũy những thứ này, đâu có dễ dàng nói buông xuống
liền buông xuống như vậy được! Nay chúng
ta buông thân, tâm, thế giới xuống, đó là phần chút
ít, rất nhỏ của tập khí phiền năo, chỉ cần
chịu buông thứ ấy xuống sẽ có thể văng sanh.
Do vậy, đến thế giới Cực Lạc, nhất
định phải tin sâu chẳng nghi: Đức Phật chẳng
nói một lời hư giả nào! Nay chúng ta chẳng thể
nghe lời con người trong thế gian này, lời giả
quá nhiều, nói lời gạt người nhiều quá! Phật,
Bồ Tát chẳng nói câu nào lừa người, phải tin
sâu chớ ngờ điều này! Nhất định phải
tin: Đến thế giới Cực Lạc đều là A
Duy Việt Trí Bồ Tát, lời này chính là “pháp khó tín”. Do vậy,
kinh này được gọi là “khó tin”, [pháp môn được
giảng trong] kinh này được gọi là “pháp khó tin”. [Trong các thế giới
phương khác], đâu có chuyện một phẩm Kiến
Tư phiền năo chưa đoạn, đến thế giới
Cực Lạc bèn có thể hưởng thụ sự đăi
ngộ như Thất Địa Bồ Tát, A Duy Việt Trí
là Thất Địa. Sự đăi ngộ như Thất
Địa Bồ Tát do A Di Đà Phật ban cho, chẳng phải
do chính ḿnh có, mà do A Di Đà Phật ban cho.
Sau đoạn
này có một câu tiểu kết: “Cố
vân: Phàm hữu ngôn thuyết, giai vô thật nghĩa” (V́
thế, nói: Hễ có ngôn thuyết đều chẳng phải
là thật nghĩa). V́ ngôn thuyết cũng là tướng. “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, ngôn thuyết cũng là
hư vọng, các thứ diễn đạt, biểu thị
vẫn là hư vọng, phải biết điều này! Ngôn
thuyết có cần hay chăng? Cần chứ! Đối với
kẻ chưa khai ngộ th́ cần, đối với
người đă khai ngộ th́ chẳng cần, không cần
dùng ngôn thuyết nữa. Do vậy, đối với lục
đạo chúng sanh th́ phải dùng ngôn ngữ, phải dùng biểu
pháp (các hành động, phương cách nhằm biểu thị,
diễn đạt pháp); cho đến tứ thánh pháp giới,
tuy ít dùng ngôn ngữ, nhưng vẫn cần, dùng biểu
pháp khá nhiều; đến cơi Thật Báo Trang Nghiêm th́ [ngôn
thuyết lẫn biểu pháp] đều không cần dùng tới
nữa. Không cần dùng tới v́ chính ḿnh chưa viên chứng
tự tánh, quư vị thấy kinh đă nói, chắc chắn
chẳng giả, người trong thế giới Cực Lạc
mỗi ngày nghe [A Di Đà] Phật thuyết pháp, đồng
thời họ có thể phân thân, có thể phân thành vô lượng
vô biên thân, đến các cơi nước Phật trong mười
phương cúng dường Phật. Cúng dường Phật
là tu phước, nghe Phật thuyết pháp là trí huệ, phước
huệ song tu, vĩnh viễn không ngừng nghỉ! Cái thân ấy
của họ hoàn toàn là hóa thân, đến đi tự do. Trong
cảnh giới đó, chúng ta biết: Không có không gian tức
là chẳng có khoảng cách, ư niệm vừa dấy lên, cảnh
giới bèn hiện tiền, ở ngay trước mắt,
ngay lập tức, thật sự chẳng có đến hay
đi!
Kinh
nói “mười vạn ức cơi
Phật”, đó là nói phương tiện, nói tùy thuận
Tục Đế. Trong sự tưởng tượng của
chúng ta, điều ấy khó khăn, thật sự khó, nhưng
trong cảnh giới của họ (người trong thế
giới Cực Lạc), điều ấy quá dễ dàng! Họ
có thân thể, nhưng thân thể họ chẳng giống sắc
tướng của chúng ta trong hiện tại. Họ có thân
thể, cũng có sắc thân, nhưng trong kinh, đức Phật
có nói tới một loại [sắc tướng] là Vô Biểu
Sắc. Vô Biểu Sắc là ǵ? Thí dụ như chúng ta
tưởng tượng, chúng ta nghĩ tới Chương
Gia đại sư, tôi vừa nghĩ, h́nh dáng Chương
Gia đại sư thuở ấy bèn hiện diện [trong
tâm tôi], tôi thấy rất rơ ràng, nhưng quư vị chẳng
thấy, sắc ấy là Vô Biểu Sắc. Chúng ta nằm mộng,
cảnh giới trong mộng cũng rất rơ rệt, sắc
tướng ấy tươi sáng, nhưng ta đang nằm
mộng, người bên cạnh nói họ chẳng thấy
ǵ, thật sự có sắc tướng, mà họ nh́n không
thấy. Nhưng người có Thiên Nhăn có thể thấy, chứng
tỏ sắc ấy chẳng phải giả, người có
Thiên Nhăn, hay có công năng định lực sẽ thấy
được. Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, nhiều vọng
niệm, cho nên chẳng nh́n thấy. Ư niệm dấy lên, nó
bèn có tướng, tướng do tâm sanh, hễ khởi niệm
bèn có tướng. Tưởng một quả núi, sẽ có
tướng núi. Tưởng một cái cây, sẽ có tướng
cây. Tưởng hoa, sẽ có tướng hoa. Tưởng ǵ,
tướng ấy đều hiện tiền, lẽ nào chẳng
có tướng? Tướng sanh từ tâm tưởng, thật
là thiên biến vạn hóa. Sách Hoàn Nguyên Quán nói: “Xuất sanh vô tận”, thiên biến
vạn hóa. Khi ấy, tôi đọc câu này chẳng hiểu
lắm, v́ sao có hiện tượng này? Tôi nghĩ thuở
nhỏ chơi kính vạn hoa, chẳng phải là kính vạn
hoa rất đơn giản ư? Đúng là thiên biến vạn
hóa, sanh ra vô tận. Ba mảnh gương, ở giữa đó
cắt một ít giấy vụn màu sắc khác nhau, quư vị
vĩnh viễn xoay chuyển, xoay cả tuần, cũng chẳng
thể có hai mô thức giống nhau. Theo kinh Phật, tự
tánh của chúng ta là bất động, A Lại Da là động.
Do vậy, A Lại Da giống như kính vạn hoa, xuất
sanh vô tận, biến hóa vô cùng, nhưng toàn là giả, chẳng
có ǵ là thật.
Do vậy,
quả thật đều là “chẳng có thật nghĩa”. Đây
là nói rơ tất cả hết thảy hiện tượng
trong khắp pháp giới hư không giới, hiện tượng
vật chất cũng thế, mà hiện tượng tinh
thần cũng thế, quư vị đừng nghĩ chúng là
thật, đừng mê trong ấy. Nói cách khác, quư vị
cũng chớ nên dấy lên ư niệm mong khống chế,
chiếm hữu chúng, sai rồi! Chỉ cần khởi lên ư
niệm này, quư vị bèn đọa trong luân hồi, chẳng
thoát ra được! Do vậy, đối với kẻ giác
ngộ, tất cả hết thảy những thứ họ
có, nếu quư vị hỏi họ, được! Lấy đi!
Họ thật sự chẳng có ư niệm, chẳng phân biệt,
chấp trước, ta dùng hay quư vị dùng đều như
nhau! Tiền mất đi là để cho người khác lấy
dùng, chẳng phải là giống như ta dùng hay sao, đâu
có ǵ khác nhau? Quư vị nói có phải là sống vui sướng
lắm chăng? Vui sướng do đây mà có! V́ sao quư vị
khổ? Thứ ǵ cũng đều muốn chiếm hữu,
thứ ǵ cũng đều muốn khống chế, vậy
là quư vị khổ chẳng thể nói nổi, quư vị sai
rồi, mê mất rồi! Do vậy nói “đều không có thật
nghĩa”, ư nghĩa này hay lắm! Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây!
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần
9 hết
[1] Đăng đường
nhập thất: Thời cổ, đối với kiến
trúc trong các dinh thự, phủ đường lớn, các
công tŕnh phía trước gọi là đường, phía sau gọi
là thất. “Đăng
đường nhập thất” có nghĩa là tiến
vào sảnh đường, vào tận những gian pḥng ở
sâu phía trong, tức là người thân thuộc
với chủ nhân, hoặc người nhà. Do vậy,
dùng h́nh ảnh này để mô tả những người
đă thâm nhập, là học tṛ đă đạt mức
độ thấu hiểu sâu xa đối với một
môn học.